P. l. atrox P. l. europaea P. l. melanochaita (Sensu stricto)
P. l. sinhaleyus P. l. spelaea Felis leo Linnaeus, 1758
Sư tử (Panthera leo) là một trong những loài
đại miêu của
họ Mèo,
chi Báo. Được xếp mức
sắp nguy cấp trong thang
sách Đỏ IUCN từ năm 1996, các quần thể loài này ở
châu Phi đã bị sụt giảm khoảng 43% từ những năm đầu
thập niên 1990. Trong văn hóa phương Tây, sư tử được mệnh danh là "
chúa tể rừng xanh" (king of the jungle) hay "vua của muôn thú" (king of beasts). Sư tử là loài
dị hình giới tính; con đực lớn hơn con cái với phạm vi trọng lượng điển hình từ 150 đến 200 kg đối với con đực và 120 đến 182 kg (265 đến 400 lb) đối với con cái, và có lực cắn lên đến 1000 PSI đối với con đực trường thành,là loài lớn thứ nhì
họ Mèo sau
hổ Đông Bắc Á. Sư tử đực có thể dễ dàng được nhận ra từ xa bởi bờm của chúng. Sư tử hoang hiện sinh sống ở vùng
châu Phi hạ Sahara và
châu Á (nơi quần thể còn sót lại cư ngụ ở
vườn quốc gia Rừng Gir thuộc
Ấn Độ), các phân loài sư tử
tuyệt chủng từng sống ở
Bắc Phi và
Đông Nam Á. Cho tới cuối
Pleistocene, khoảng 10 000 năm trước,
sư tử là
động vật có vú có phân bố rộng thứ 2 chỉ sau
con người. Khi đó, chúng sống ở hầu khắp
châu Phi, ngang qua
lục địa Á-Âu từ miền
Tây Âu tới
Ấn Độ, và
châu Mỹ từ
Yukon tới
Peru.
[5] Sư tử là
loài sắp nguy cấp, chúng đã được liệt kê là loài dễ bị tổn thương trong
sách đỏ IUCN kể từ năm 1996 bởi vì những quần thể sư tử ở các nước châu Phi đã giảm khoảng 43% kể từ đầu những năm 1990. Nhiều quần thể sư tử không được bảo vệ bên ngoài những khu vực được chỉ định bảo vệ. Mặc dù nguyên nhân của sự suy giảm chưa được làm rõ một cách đầy đủ, nhưng mất môi trường sống và xung đột với con người là những nguyên nhân lớn nhất.Sư tử sống từ 10–14 năm trong tự nhiên, trong môi trường giam cầm chúng có thể sống hơn 20 năm. Trong tự nhiên, con đực hiếm khi sống hơn 10 năm, do hậu quả của việc phải đánh nhau liên tục với các đối thủ đồng loại khác.
[6] Chúng thường sống ở
xavan và
thảo nguyên chứ không sống trong những khu rừng rậm rạp. Sư tử có tập tính xã hội khác biệt so với các loài
họ Mèo còn lại với lối sống theo bầy đàn. Một đàn sư tử gồm con cái và con non của chúng cùng với một số nhỏ con đực trưởng thành. Các nhóm sư tử cái thường đi săn cùng nhau, chủ yếu săn những loài
động vật móng guốc lớn. Chúng là loài
động vật ăn thịt đầu bảng chủ chốt và chủ yếu ăn thịt sống, mặc dù chúng cũng sẽ ăn
xác thối khi có cơ hội. Một số con sư tử đã được biết đến là có thể
săn người, mặc dù đây là điều không thường thấy ở chúng.
[7][8]Là một trong những biểu tượng động vật được công nhận rộng rãi nhất trong văn hóa loài người, sư tử đã được mô tả rộng rãi trong các tác phẩm điêu khắc và tranh vẽ, trên quốc kỳ, và trong các bộ phim và văn học đương đại. Sư tử đã được nuôi nhốt từ thời
Đế quốc La Mã và là một
loài chủ chốt được tìm kiếm để triển lãm trong các
vườn bách thú trên khắp thế giới kể từ cuối thế kỷ 18. Miêu tả văn hóa của sư tử là nổi bật trong
thời kỳ đồ đá cũ; tranh khắc và tranh vẽ từ hang động
Lascaux và
Chauvet ở
Pháp đã có từ 17.000 năm trước, và các mô tả đã xảy ra ở hầu hết các nền văn hóa cổ đại và trung cổ trùng với các phạm vi trước đây và hiện tại của sư tử.