Nguyễn_Xuân_Khoát
Nguyễn_Xuân_Khoát

Nguyễn_Xuân_Khoát

Nguyễn Xuân Khoát (19101993) là một nhạc sĩ và là Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Ông được coi là Người anh cả, là Cánh chim đầu đàn của nền tân nhạc Việt Nam [1].Ông sinh ngày 11 tháng 2 năm 1910, quê ở Hà Nội. Nguyễn Xuân Khoát học đại hồ cầm tại Conservatoire de Musique Française d'Extrême-Orient (Viễn Đông Nhạc viện), một nhạc viện do người Pháp lập ra tại Hà Nội từ năm 1930. Ông có thể chơi thành thạo violin, piano và nhất là contrebass.Sáng tác đầu tay của ông, bài Bình minh (thơ của Thế Lữ) được in trên tờ "Ngày Nay" năm 1938. Năm 1942, ông tham gia nhóm Xuân Thu Nhã Tập và đã phổ nhạc một cách độc đáo bài thơ Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ, một thành viên của nhóm. Ông cùng Thế Lữ tổ chức Đoàn kịch Anh Vũ, tham gia biểu diễn trong những ngày đầu sau Cách mạng tháng 8 thành công. Ông là thành viên chính trong ban nhạc của Quán Nghệ sĩ ở Hà Nội, là thành viên của Hội Khuyến nhạc tổ chức ở Hà Nội lúc bấy giờ. Trong thời kỳ đi kháng chiến, ông có nhiều bài hát nổi tiếng như Tiếng chuông nhà thờ, Uất hận, Con voi (cùng Nguyễn Đình Thi), Hát mừng bộ đội chiến thắng... Hòa bình lập lại tại miền Bắc, ông có các sáng tác đầy hứng khởi như hợp xướng Ta đã lớn, Hò kiến thiết và Lúa thu - một ca khúc thiếu nhi khá độc đáo về đề tài thống nhất đất nước. Ông được bầu làm Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam khóa I và II (1957-1983). Thời kì chiến tranh Việt Nam, ông có Tay súng sẵn sàng, tay lúa vững vàng, Theo lời Bác gọi (phỏng thơ Lê Kỳ Văn)...Nguyễn Xuân Khoát là người kiên trì bảo vệ và phát huy tính dân tộc trong âm nhạc, các ca khúc của ông mang đậm chất liệu âm nhạc dân gian như Con cò đi ăn đêm, Con voi, Thằng Bờm.. Bên cạnh nhiều khảo cứu, tiểu luận nêu cao giá trị dân tộc, ông còn thực hiện tiêu chí đấy trong thanh xướng kịch Vượt sông cái, Trống Tràng Thành viết cho piano, hoà tấu Ông Gióng, Sơn Tinh Thuỷ Tinh và hoàn toàn cho bộ gõ dân tộc như Tiếng pháo giao thừa, Cúc Trúc Tùng Mai...Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996).Hiện nay, tên của ông được đặt cho một tuyến phố ở quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, nối từ cuối phố Đỗ Nhuận đến đường trục khu đô thị Tây Hồ Tây.