Mẹ_hiền_vợ_tốt

Mẹ hiền vợ tốt hoặc lương thê hiền mẫu (Nhật: 良妻賢母, Hepburn: ryōsai kenbo?, tiếng Trung: 賢妻良母/賢母良妻; bính âm: xián qī liáng mù/xián mù liáng qī) là một thành ngữ bốn chữ (yojijukugo), bắt nguồn từ vai trò truyền thống lý tưởng hóa đối với phụ nữ do Nakamura Masanao đề xướng vào năm 1875.[1]. Mẹ hiền vợ tốt đại diện cho phụ nữ lý tưởng ở khu vực Đông Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc vào cuối những năm 1800 và đầu những năm 1900, tiếp tục ảnh hưởng cho đến thời điểm hiện đại. Phụ nữ được kỳ vọng sẽ thành thạo các kỹ năng nữ công gia chánh như may vá hay nấu ăn, cũng như phát triển kỹ năng đạo đức và trí tuệ để nuôi dạy những đứa con trai mạnh mẽ và thông minh vì lợi ích quốc gia. Thai nghén được coi là một nghĩa vụ chủ nghĩa yêu nước và mặc dù triết lý này tại Nhật Bản đã bị từ bỏ sau chiến tranh thế giới thứ hai nhưng các nhà sử học nữ quyền cho rằng "mẹ hiền vợ tốt" vẫn tồn tại trong Nhật Bản đương đại giống như thập niên 1980.[2]