Mehmed II (
Tiếng Thổ Ottoman: محمد الثانى Meḥmed-i s̠ānī,
tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: II. Mehmet), (còn được biết như
Méchmét vô địch,
[1] tức el-Fātiḥ (الفاتح) trong
tiếng Thổ Ottoman, hay,
Fatih Sultan Mehmet trong
tiếng Thổ Nhĩ Kỳ; còn gọi là Mahomet II
[2][3] ở
châu Âu thời cận đại) (
30 tháng 3 năm
1432,
Edirne –
3 tháng 5 năm
1481,
Hünkârçayırı, gần
Gebze) là
vị Sultan thứ bảy của
đế quốc Ottoman (
Rûm trước cuộc chinh phạt) trong một thời gian ngắn từ năm 1444 tới tháng 9 năm 1446, và sau đó là từ tháng 2 năm 1451 tới 1481. Ở tuổi 21, ông
chinh phạt Constantinopolis, dẫn tới sự sụp đổ của
Đế quốc Đông La Mã. Mehmet tiếp tục chinh chiến ở châu Á, thống nhất lại
Tiểu Á, và mở rộng lãnh thổ tới
Beograd ở châu Âu. Sau đó, ông hợp nhất chính sách trị dân cũ của Đông La Mã với chính sách trị dân của nhà Ottoman. Mehmet II không được xem là vị vua người
dân tộc Turk đầu tiên của Constantinopolis, nhưng không lạ gì vì trước ông,
Leo IV người Khazar, theo
đạo Thiên Chúa, là Hoàng đế La Mã
trên danh nghĩa. Ngoài
Thổ Nhĩ Kỳ, ông còn nói được các tiếng
Ả Rập,
Hy Lạp,
Ba Tư,
Serbia,
Ý,…
[4]Mặc dù Mehmed II đã qua đời khi còn nhiều chiến dịch đang dang dỡ và không thỏa mãn được mục tiêu xây dựng một đế chế toàn cầu tuy nhiên ông lại là người đã thiết lập sự ưu việt cho Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman trong thế giới Hồi giáo. Trong nỗ lực chinh phục, ông đã mở rộng ảnh hưởng của Ottoman ở phía đông tới tận Euphrates và phía tây trên khắp
Balkan và thậm chí trên
bán đảo Ý. Dù bị chửi rủa vì sự tàn bạo và lòng nhiệt thành của anh ta hay được chào đón vì những thành công này, Mehmed II, Kẻ chinh phục, đã khẳng định uy quyền của vương quốc và bảo vệ tính cách của Đế chế Ottoman. Từ phần còn lại của Byzantium, ông đã xây dựng một thủ đô rực rỡ của một Đế chế Thổ Nhĩ Kỳ đang phát triển, sẽ là một cường quốc thế giới trong bốn thế kỷ tiếp theo.
[5]