Trong
địa chất học, các khoáng chất và đá
mafic là các
khoáng chất silicat,
macma,
đá lửa do núi lửa phun trào hoặc xâm nhập có tỷ lệ các
nguyên tố hóa học nặng khá cao. Thuật ngữ này là tổ hợp của magnesium và ferrum, hai từ trong
tiếng Latinh để chỉ
magiê [ma(gnesium) + và
sắt f(errum) + ic]
. Dù có tên như vậy, macma mafic cũng khá giàu
canxi và
natri.Các khoáng chất mafic thông thường sẫm màu và có
tỷ trọng riêng lớn hơn 3,0. Các loại khoáng chất mafic tạo đá thông dụng là
olivin,
pyroxen,
amphibol,
biotit và các
mica,
augit cũng như
plagiocla thuộc nhóm
fenspat giàu canxi.Các loại đá mafic thông dụng bao gồm
bazan và
gabbro.Trong thuật ngữ hóa học, các loại đá mafic mằm ở mặt khác của phổ đá so với các loại đá được gọi là đá
felsic. Thuật ngữ này tương ứng gần đúng với lớp đá cơ bản cũ hơn.Dung nham mafic, trước khi nguội đi, có
độ nhớt thấp hơn của dung nham felsic do hàm lượng silica (SiO2) ít hơn. Nước và các chất dễ bay hơi khác có thể dễ dàng hơn và dần dần thoát ra khỏi dung nham mafic, vì thế các phun trào của núi lửa tạo ra dung nham mafic là ít dữ dội hơn so với phun trào dung nham felsic. Phần lớn các núi lửa phun dung nham mafic là các núi lửa dưới đại dương, chẳng hạn
Hawaii.