Lịch_sử_Na_Uy

Lịch sử Na Uy bị ảnh hưởng bởi sự bất thường của địa hình và khí hậu thời kì Băng hà. Khoảng 10000 năm trước công nguyên, sau khi những dải băng cuối cùng rút lui, những cư dân đầu tiên đã đặt chân đến vùng đất mà ngày nay là Na Uy. Họ đi dần lên phía bắc, dọc theo vùng biển, nơi bị ảnh hưởng bởi hải lưu Bắc Đại Tây Dương ấm áp. Để tồn tại, họ bắt và săn đuổi tuần lộc (và các động vật khác). Khoảng giữa 5000 và 4000 TCN, những nông dân đầu tiên đã sống định cư quanh vùng vịnh hẹp Oslo. Dần dần, giữa năm 1500 và 500 TCN, những nông dân định cư tràn đến khu vực phía nam của Na Uy, - trong khi những cư dân phía bắc tiếp tục săn bắn và du mục.Giai đoạn di cư của các dân tộc du mục Bắc Âu đã gây nên những cuộc đụng độ đầu tiên, từ đó bắt buộc phải có thủ lĩnh để chỉ huy chinh chiến. Từ thập kỷ cuối cùng của thế kỷ thứ 8 người Na Uy bắt đầu tung hoành trên biển, đến Anh và sau đó IcelandGreenland. Kỉ Viking cho thấy một sự hỗn loạn, không thống nhất của vùng đất Na Uy. Nhưng trong quá trình mở rộng lãnh thổ, người Viking cũng tiếp nhận Thiên Chúa Giáo. Dân số mở rộng nhanh chóng cho đến năm 1349 (Oslo: 3,000; Bergen: 7,000; Trondheim: 4,000)[cần dẫn nguồn] khi bị giảm một nửa do bệnh dịch cái chết Đen và mất mùa, đói kém. Bergen trở thành trung tâm chính trị và kinh tế của Na Uy. Na Uy gia nhập liên minh Kalmar với Đan mạch và Thụy Điển năm 1397.Sau khi Thụy Điển rời khỏi liên minh năm 1523, Na Uy trở thành một phần trong liên minh Đan Mạch–Na Uy. Các Cải cách được áp dụng năm 1537 và chế độ quân chủ tuyệt đối áp đặt năm 1661. Trong năm 1814 Na Uy được nhượng lại cho vua Thụy Điển bởi hòa ước Kiel. Na Uy tuyên bố độc lập và thông qua một hiến pháp mới. Không có một nước nào công nhận quốc gia mới, nhưng Na Uy vẫn nhận trợ cấp từ Thụy Điển theo hòa ước Kiel. Sau một thời gian ngắn chiến tranh với Thụy Điển, 2 quốc gia đã thông qua hội nghị Moss, trong đó Na Uy chấp nhận một liên minh với Thụy điển, được quyền giữ lại Hiến pháp của mình, nghị viện riêng và các tổ chức riêng biệt, ngoại trừ ngoại giao. Liên minh đã chính thức thành lập sau khi nghị viện đã thông qua các sửa đổi cần thiết trong Hiến pháp và bầu Charles XIII Thụy điển là vua của Na Uy ngày 4 tháng 11 năm 1814.Công nghiệp hóa bắt đầu vào những năm 1840 và từ những năm 1860 sự di cư quy mô lớn đến Bắc Mỹ đã diễn ra. Trong năm 1884 nhà vua chỉ định Johan Sverdrup làm thủ tướng, qua đó thành lập chế độ quân chủ lập hiến. Liên minh với Thụy Điển được từ bỏ năm 1905. Từ những năm 1880 đến năm 1920, những nhà thám hiểm Na Uy như Roald Amundsen và Fridtjof Nansen thực hiện một loạt các cuộc thám hiểm vùng cực quan trọng.Đánh cá và thủy điện là nguồn thu nhập quan trọng cho quốc gia. Những thập kỷ sau thấy một biến động, sự gia tăng của phong trào lao động. Đức Quốc xã chiếm đóng Na Uy giữa năm 1940 và 1945 trong Thế Chiến II, sau đó Na Uy gia nhập NATO và đã trải qua một thời kỳ tái thiết. Dầu được phát hiện trong năm 1969 và năm 1995 na Uy là nước xuất khẩu dầu lớn thứ 2 thế giới. Điều này dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế lớn. Từ những năm 1980 Na Uy bắt đầu trải qua một cuộc suy thoái kinh tế.