Linezolid là một kháng sinh được sử dụng để điều trị các bệnh gây ra bởi
vi khuẩn Gram dương có khả năng kháng với các
kháng sinh khác.
[1][2] Linezolid hoạt động tiêu diệt hầu hết các
vi khuẩn Gram dương gây bệnh, bao gồm
streptococci,
enterococci kháng
vancomycin (VRE), và
Staphylococcus aureus kháng
methicillin (
MRSA).
[1][3] Sử dụng chính của kháng sinh này là cho
nhiễm trùng da và
viêm phổi mặc dù chúng cũng có thể được sử dụng cho một loạt các bệnh nhiễm trùng khác bao gồm cả
lao kháng thuốc.
[2][4] Chúng được đưa vào cơ thể bằng cách tiêm vào
tĩnh mạch hoặc qua đường
miệng.
[2]Khi được sử dụng trong thời gian ngắn, linezolid là một kháng sinh tương đối an toàn.
[5] Chúng có thể được sử dụng ở mọi lứa tuổi và ở những người bị bệnh
gan hoặc chức năng
thận kém.
[2] Các tác dụng phụ thường gặp khi sử dụng ngắn hạn bao gồm
đau đầu,
tiêu chảy,
phát ban và
buồn nôn.
[2] Tác dụng phụ nghiêm trọng có thể bao gồm
hội chứng serotonin,
ức chế tủy xương, và nồng độ
lactate trong máu cao, đặc biệt khi được sử dụng trong hơn hai tuần.
[2][6] Nếu sử dụng trong thời gian lâu hơn, kháng sinh này có thể gây tổn thương
thần kinh, kể cả tổn thương
dây thần kinh thị giác; tổn thương có thể là vĩnh viễn.
[6]Là một chất ức chế tổng hợp protein, linezolid hoạt động bằng cách ức chế
tổng hợp protein của vi khuẩn.
[7] Điều này hoặc là làm ngừng tăng trưởng hoặc giết chết
vi khuẩn.
[2] Mặc dù nhiều kháng sinh hoạt động theo cách này, cơ chế hoạt động chính xác của linezolid dường như là độc nhất ở chỗ nó ngăn chặn quá trình khởi đầu
dịch mã chứ không phải là ở các bước sau.
[7] Tính đến năm 2014, tính kháng của vi khuẩn đối với linezolid vẫn ở mức thấp.
[8] Linezolid là một thành viên của nhóm thuốc
oxazolidinone.
[2]Linezolid được phát hiện vào giữa những năm 1990 và được chấp thuận cho sử dụng thương mại vào năm 2000.
[9][10] Nó nằm trong
danh sách các thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, tức là nhóm các loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần thiết trong một hệ thống y tế.
[11] Linezolid có sẵn dưới dạng
thuốc gốc.
[2] Chi phí bán buôn ở các
nước đang phát triển là khoảng 2,90 USD mỗi ngày
[12] trong khi đó ở Hoa Kỳ tính đến năm 2016 là khoảng 13,79 đô la Mỹ mỗi ngày.
[13] Chúng dường như có hiệu quả về kinh tế hơn so với các phương án thay thế như
vancomycin, chủ yếu là do khả năng chuyển từ sử dụng tĩnh mạch sang sử dụng bằng miệng sớm hơn.
[14]