Hồ Quảng (
tiếng Trung: 胡廣, 1369-1418), tự Quang Đại, thụy Văn Mục, người Cát Thủy (nay là huyện
Cát Thủy, địa cấp thị
Cát An, tỉnh
Giang Tây)
[1]. Năm Kiến Văn thứ hai (
1400) thời
Minh Huệ Đế, ông đỗ
trạng nguyên khoa Canh Thìn. Đúng ra danh hiệu này thuộc về
Vương Cấn, nhưng do Vương Cấn thấp bé nên danh hiệu này thuộc về Hồ Quảng và Vương Cấn chỉ được ban danh hiệu
bảng nhãn[2]. Người đỗ
thám hoa là Lý Quán và cả ba người này đều cùng quê
[2].
Minh Huệ Đế ban cho Quảng tên mới là
Tĩnh[1], thụ chức hàn lâm viện tu soạn.Sau
Tĩnh Nan chi dịch, Hồ Quảng lại lấy tên cũ là Quảng
[1]. Ông hai lần cùng
Dương Vinh,
Kim Ấu Tư theo
Minh Thành Tổ đem quân chinh phạt phương bắc, được Thành Tổ rất sủng ái. Năm 1414, trong lần thứ hai bắc chinh, ông cùng Dương Vinh, Kim Ấu Tư đi theo để giảng kinh sử cho trưởng hoàng tôn Chu Chiêm Cơ (tức
Minh Tuyên Tông sau này).Làm quan tới
Văn Uyên các đại học sĩ (phong năm 1416)
[1], kiêm
tả xuân phường đại học sĩ (phong 1407)
[1]. Ông là nội các thủ phụ từ tháng hai âm lịch năm 1407, sau khi
Giải Tấn bị biếm chức, cho tới khi chết. Ông mất tháng 5 âm lịch năm Vĩnh Lạc thứ 16 (
1418)
[1], được truy tặng
Lễ bộ thượng thư, thụy Văn Mục
[1]. Thời
Minh Nhân Tông được truy tặng
thiếu sư[1]. Văn thần thời Minh được tặng thụy hiệu bắt đầu từ Hồ Quảng trở đi
[1].Sáng tác có Hồ Văn Mục tạp trứ.