Giáo hội Maronite (cũng viết
Maronita, hay đơn giản là
Maroni; tên đầy đủ trong
tiếng Syriac: ܥܕܬܐ ܣܘܪܝܝܬܐ ܡܪܘܢܝܬܐ ܕܐܢܛܝܘܟܝܐ ʿīṯo suryoiṯo morunoiṯo d'anṭiokia;
tiếng Ả Rập: الكنيسة الأنطاكية السريانية المارونية al-Kanīsa al-Anṭākiyya al-Suryāniyya al-Māruniyya;
tiếng Latinh: Ecclesia Maronitarum) là một Giáo hội
Công giáo Đông phương hiệp thông với
Tòa Thánh Rôma. Giáo hội này tiếp nối di sản từ cộng đồng được thành lập bởi thánh
Maron, một tu sĩ Syria-Aramea thế kỷ 4.
Thượng phụ Maronite đầu tiên là thánh
Gioan Maronô ở thế kỷ 7.Tại
Liban, dù đang suy giảm dân số nhưng Maronite vẫn là một trong những sắc tộc tôn giáo chính. Giáo hội Maronite khẳng định rằng kể từ khi thành lập, họ luôn trung thành với
Giáo hội Rome và với
Giáo hoàng.
[2]Trước khi cuộc chinh phạt của người Ả Rập Hồi giáo tiến đến Liban,
người Liban bản địa, bao gồm những người sau này trở thành người Hồi giáo và phần đa số vẫn tiếp tục là người Kitô giáo, nói một phương ngữ của
tiếng Aram.
[3][4][5] Tiếng Syriac (tiếng Aram Kitô giáo) vẫn là
ngôn ngữ phụng vụ của Giáo hội Maronite.
[6] Người Maronite là một bộ phận của người Liban, có các di sản văn hóa và ngôn ngữ của cả các yếu tố
Phoenicia bản địa và các yếu tố ngoại nhập trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Một số quan điểm cho rằng người Maronite còn là hậu duệ của các sắc dân
Aramea,
Ghassanid,
Syria/Assyria, và
Mardaite; mặc dù theo thời gian họ đã phát triển những đặc tính Maronite riêng biệt nhưng điều này không làm lu mờ gốc gác
Syriac và Antiochia của họ.
[7][8]