Chiến tranh Ngàn ngày (1899–1902) (
tiếng Tây Ban Nha: Guerra de los Mil Días) hay
xung đột năm 1899 là một cuộc xung đột vũ trang dân sự quốc nội quan trọng ở
Cộng hòa Colombia (lúc đó bao gồm cả
tỉnh Panama) phát sinh 1.130 ngày từ ngày
17 tháng 10 năm 1899 đến ngày
21 tháng 11 năm 1902, giữa
Đảng Tự do,
Đảng Bảo thủ do Tổng thống
Manuel Antonio Sanclemente lãnh đạo và các phe phái cực đoan. Vào năm 1899, người ta cáo buộc những người bảo thủ chấp chính duy trì chính quyền bằng cách sử dụng các trình tự bầu cử gian lận phi dân chủ. Giá cà phê quốc tế giảm làm tình hình kinh tế quốc nội trở nên tồi tệ hơn.
Đảng Tự do và các đảng đối lập sau khi thất bại đã mất quyền lực đáng kể.
[6]. Đây là một cuộc chiến tranh bất thường giữa quân đội chính phủ được tổ chức tốt và một đội quân du kích tự do được đào tạo kém và vô chính phủ.Cuộc xung đột kết thúc với kết quả
Đảng Bảo thủ thắng lợi, kinh tế quốc gia bị tàn phá nặng nề, hơn một trăm ngàn người tử vong,
Chính phủ Quốc gia tất yếu biến mất sau đó dẫn đến sự kiện quốc gia
Panama ly khai (lúc đó là
một phần của
Địa khu Colombia), hoàn tất vào tháng 11 năm 1903. Đất nước thay đổi đột ngột do chính phủ phế trừ
Hiến pháp Rionegro năm 1863 (củng cố
mô thức liên bang) thay cho
Hiến pháp năm 1886 mang tính
trung ương tập quyền (do tổng thống
Rafael Núñez ủy quyền và kiến lập), những người bảo thủ thông qua danh nghĩa của Marroquin cố gắng cưỡng chế bằng bạo lực. Đoạt quyền là nguyên nhân chủ yếu của chiến tranh.Cuộc xung đột quốc tế mở rộng sang một phần sang các lân quốc như
Ecuador và
Venezuela, trong đó các trận chiến diễn ra giữa các lực lượng Colombia và Ecuador và/hoặc quân đội Venezuela (chắc là hỗ trợ lính Colombia cách tiến hành chiến đấu). Các quốc gia khác như
Guatemala,
El Salvador và
Nicaragua ủng hộ phái Tự do chủ nghĩa và phái Bảo thủ bằng cách tiếp tế vũ khí và dụng phẩm.
[7][8] Hoa Kỳ cũng tham gia tác chiến tại Panama (một hạm đội Mỹ bảo chứng
eo đất an toàn bằng
điều ước Mallarino-Bidlack năm 1846).