Đổ bộ hàng khôngPhân khu của Anh
Tonga (
Hệ thống cầu Kênh Caen và Sông Orne •
Trận địa pháo Merville) •
MallardPhân khu của MỹAlbany •
Boston •
Chicago •
Detroit •
Elmira •
KeokukĐổ bộ đường biểnPhân khu của Mỹ
Omaha •
Utah •
Mũi HocPhân khu của Anh-Canada
Gambit •
Sword •
Juno •
Gold •
Port-en-BessinHậu cầnMỹ (
Chastity) •
Anh Quốc (
Mulberry •
Pluto)
Trận đánh trên đất liềnPhân khu của Mỹ
Trang viên Brécourt •
Graignes •
Saint-Lô •
Carentan (
Đồi 30) •
CherbourgPhân khu của Anh-Canada
Caen •
Bréville •
Perch (
Villers-Bocage •
Le Mesnil-Patry) •
Douvres •
Martlet •
Epsom •
Windsor •
Charnwood •
Jupiter •
Odon •
Atlantic •
Goodwood •
Đèo VerrièresĐột pháCobra •
Spring •
Bluecoat •
Totalize •
Lüttich •
Tractable •
Đồi 262 •
Chambois •
Falaise •
Saint-Malo •
Brest •
Paris •
La RochelleTrận đánh trên biển và trên khôngChiến dịch Overlord là mật danh của
Trận Normandie, một
chiến dịch quân sự lớn của
quân đội Đồng Minh tại miền Bắc
nước Pháp trong
Chiến tranh thế giới thứ hai. Overlord được mở màn vào ngày
6 tháng 6 năm
1944 bằng các cuộc đổ bộ lớn vào các
bãi biển ở vùng
Normandie, có mật danh là
Chiến dịch Neptune (Ngày D). Đây là chiến dịch tấn công từ biển vào
đất liền lớn nhất trong lịch sử, với sự góp mặt của hơn 1.200
máy bay, hơn 5.000
tàu chiến các loại và gần 160.000
binh lính Đồng Minh tham gia đổ bộ trong ngày đầu tiên, tức ngày 6 tháng 6 năm 1944, và có hơn 2.000.000 binh lính Đồng Minh đã có mặt tại Pháp tính đến thời điểm cuối tháng 8 năm 1944.Quyết định vượt biển để thực hiện một cuộc đổ bộ vào châu Âu trong năm 1944 đã được nêu ra tại Hội nghị Trident tại Washington, tháng 5 năm 1943. Phe Đồng Minh ban đầu dự định sẽ độ bộ vào ngày 1 tháng 5 năm 1944, và bản thảo về chiến dịch đã được chấp thuận tại Hội nghị Quebec vào tháng 8 năm 1943. Đại tướng
Dwight D. Eisenhower được bổ nhiệm làm Tư lệnh Tối cao của Lực lượng Viễn chinh Đồng Minh (SHAEF) và Thống chế
Bernard Montgomery được bộ nhiệm làm chỉ huy Cụm tập đoàn quân số 21, bao gồm toàn bộ lực lượng mặt đất sẽ tham gia vào chiến dịch xâm lược. Vùng biển Normandie ở phía tây bắc nước Pháp được chọn làm khu vực đổ bộ. Các đơn vị của Hoa Kỳ sẽ đổ bộ vào các bãi biển có định danh là
Utah và
Omaha, các đơn vị Anh sẽ đổ bộ vào bãi
Sword và
Gold, và quân đội Canada sẽ phụ trách bãi
Juno. Để đáp ứng các điều kiện hình thành đầu cầu đổ bộ ở Normandie, quân đội Đồng Minh đã phát triển nhiều loại công nghệ đặc biệt, trong đó có cảng nhân tạo Mulberry và các lực lượng xe chuyên dụng đặc biệt, được biết đến qua cái tên "Những gã hề của Hobart" (Hobart's Funnies). Vài tháng trước chiến dịch, quân đội Đồng Minh đã tiến hành Chiến dịch Bodyguard, một chiến dịch đánh lạc hướng nhằm đánh lừa quân Đức về thời gian và địa điểm của một cuộc đổ bộ lớn của quân Đồng Minh, trong đó có
Chiến dịch Fortitude, được lập ra để đánh lạc hướng
Bộ chỉ huy Tối cao Đức khỏi khu vực
Normandie. Theo chỉ đạo của
Adolf Hitler, Thống chế
Erwin Rommel được giao nhiệm vụ giám sát việc xây dựng và nâng cấp hệ thống phòng thủ
Bức tường Đại Tây Dương kéo dài từ
Hà Lan tới Cherbourg, và được bổ nhiệm là chỉ huy
Cụm tập đoàn quân B mới được thành lập.Quân Đồng Minh đã không hoàn thành được các mục tiêu đề ra trong ngày đầu tiên, nhưng đã tạo được một tiền đề vững chắc để có thể giúp họ tiến công và mở rộng phạm vi kiểm soát trong những tháng tiếp theo. Quân Đồng Minh chiếm thành công thành phố cảng
Cherbourg vào ngày 26 tháng 6 và kiểm soát được thành phố chiến lược
Caen vào ngày 21 tháng 7. Cuộc phản công của quân đội Đức Quốc Xã vào ngày 8 tháng 8 bị thất bại, và khiến hơn 50.000 binh sĩ Đức thuộc Tập đoàn quân số 7 bị mắc kẹt tại
Falaise. Quân đội Đồng Minh sau đó mở chiến dịch đổ bộ lớn thứ hai tại khu vực Địa Trung Hải vào miền Nam nước Pháp, có mật danh là
Chiến dịch Dragoon, vào ngày 15 tháng 8 và
giải phóng Paris thành công vào ngày 25 tháng 8. Quân Đức buộc phải rút lui về phía đông dọc theo Sông Seine vào ngày 30 tháng 8 năm 1944, đánh dấu sự kết thúc của Chiến dịch Overlord.