Chi Xương bồ (
danh pháp khoa học:
Acorus) là một chi của một số loài
thực vật một lá mầm trong
thực vật có hoa. Chi này đã từng được đặt trong
họ Ráy (Araceae), nhưng các nghiên cứu phát sinh loài gần đây lại đặt nó trong họ riêng của chính nó là
họ Xương bồ (Acoraceae), thuộc
bộ Xương bồ (Acorales), trong đó nó là chi duy nhất của một dòng dõi các thực vật một lá mầm cổ nhất còn tồn tại.
[3][4] Tuy nhiên, quan hệ chính xác của chi Acorus với các thực vật một lá mầm khác vẫn còn gây tranh cãi giữa các nhà khoa học. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng nó nên được đặt trong nhánh dòng dõi của
bộ Trạch tả (Alismatales), bao gồm cả các loài ráy, khoai nước, khoai môn (họ Araceae), họ
Tofieldiaceae và một vài họ thực vật một lá mầm thủy sinh khác (chẳng hạn Alismataceae, Posidoniaceae). Các loài được biết đến nhiều là
thạch xương bồ và
thủy xương bồ.Tên gọi khoa học acorus có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp acoron, một tên gọi do
Dioscorides sử dụng, mà nó lại có nguồn gốc từ coreon, nghĩa là đồng tử (con ngươi mắt), do nó đã từng được sử dụng trong y học cổ truyền để điều chị chứng viêm, sưng mắt.Chi này có nguồn gốc
Bắc Mỹ và khu vực bắc và đông
châu Á, nhưng đã hợp thủy thổ tại miền nam châu Á cũng như
châu Âu từ việc gieo trồng có từ thời tiền sử.
[2][5][6][7][8][8][9] Các quần thể hoang dã đã biết là dạng
lưỡng bội, ngoại trừ một số thuộc dạng
tứ bội ở miền đông châu Á, trong khi các dạng gieo trồng là dạng
tam bội vô sinh, có lẽ là loại lai ghép giữa dạng lưỡng bội và tứ bội.