Bayinnaung
Bayinnaung

Bayinnaung

Bayinnaung (tiếng Miến Điện: ဘုရင့်နောင်, phát âm [bəjɪ̰ɴ nàuɴ]; phát âm tiếng Việt: Bu-reng-noọng, sinh: 13/11/1516 – mất 11/1581,Tiếng Trung:Mảng Ưng Long) là vị vua đời thứ ba của nhà TaungooMyanma. Suốt 30 năm trị vì, mà một sử gia từng đánh giá là "sự bùng nổ nhiệt huyết lớn nhất từng thấy ở Myanma", Bayinnaung đã thành lập nên đế quốc lớn nhất Đông Nam Á, bao gồm Myanma ngày nay, Manipur nay thuộc Ấn Độ, Mong Mao (những nhà nước cổ của người ShanVân Nam), Lan Na (bắc Thái Lan ngày nay), Ayutthaya (miền trung và nam Thái Lan ngày nay) và Lan Xang (đông bắc Thái Lan và Lào ngày nay).[3]Dù người ta thường hay nhớ đến ông vì có công vĩ đại xây dựng đế quốc, song di sản lớn nhất của Bayinnaung là đã thu phục được các nhà nước Shan vào vương quốc do người Miến lãnh đạo, nhờ đó loại bỏ nguy cơ người Shan xâm phạm Thượng Miến, một nguy cơ xuất hiện và thường trực từ cuối thế kỷ 13. Sau khi chinh phạt các nhà nước Shan vào năm 1557, vị vua này đã thiết kế một hệ thống hành chính làm suy yếu sức mạnh thế tập của các saopha (tù trưởng) người Shan, và điều chỉnh các tập quán của người Shan phù hợp với những chuẩn mực của người Miến. Chính sách đối với người Shan của ông được các vị vua người Miến sau này tiếp tục cho đến tận khi vương quốc này bị thực dân Anh thôn tính vào năm 1885.[4]Tuy nhiên, ông đã không thể áp dụng chính sách hành chính nói trên vào bất kỳ đâu khác trong đế quốc của mình. Đế quốc của ông là một tập hợp lỏng lẻo các vương quốc có chủ quyền mà vua của những xứ đó thần phục chính bản thân ông như một vị vua của các vị vua, chứ không thần phục vương quốc Taungoo. Chỉ sau khi ông qua đời chỉ 3 năm, người Ayutthaya đã vùng dậy. Đến năm 1599, tất cả các vị vua mà ông đã khuất phục đều đã phản lại, và đế quốc của Bayinnaung đã sụp đổ hoàn toàn.Ở Thái Lan, ông nổi tiếng nhờ một bài hát và một cuốn sách thu hút rộng rãi độc giả có tên "Phu Chana Sip Thit" nghĩa là "Người chinh phạt thập phương".

Bayinnaung

Thân mẫu Shin Myo Myat
Tiền nhiệm Tabinshwehti
Tên đầy đủ
Tên đầy đủ
Shin Ye Htut (ရှင်ရဲထွတ်)
Đăng quang 12 tháng 01 năm 1554
Sinh 13 tháng 2 năm 1516[2]
Phối ngẫu Atulathiri
Sandadewi
YazadewiSuphankanlaya[1]
Mất Tháng 11 năm 1581 (hưởng dương 65 tuổi)
Pegu
Tôn giáo Phật giáo Thượng tọa bộ
Hoàng tộc Taungoo
Kế vị Nanda
Hậu duệ Nanda
Nyaungyan
Minye Thihathu
Nawrahta Minsaw[1]
Tại vị 11 tháng 01 năm 1551 – tháng 11 năm 1581 (30 năm 10 tháng)
An táng Pegu
Thân phụ Mingyiswe

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bayinnaung http://www.irrawaddymedia.com/article.php?art_id=6... http://www.irrawaddymedia.com/article.php?art_id=6... http://www.irrawaddymedia.com/article.php?art_id=6... http://lakdiva.com/suntimes/970406/plus2.html http://www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps06_064.pdf http://www.arts.chula.ac.th/~complit/event/hantawa... http://web.soas.ac.uk/burma/1.2%20PDF%20FILES/1.2%... http://web.soas.ac.uk/burma/pdf/Federici.pdf http://web.soas.ac.uk/burma/pdf/Ferquist1.pdf