Archaeopteryx (
/ˌɑːrkiːˈɒptərɪks/) là một
chi khủng long giống chim chuyển tiếp giữa
khủng long có lông và
chim hiện đại. Tên chi xuất phát từ
tiếng Hy Lạp cổ đại ἀρχαῖος (archaīos) nghĩa là "cổ đại", và
πτέρυξ (ptéryx), nghĩa là "lông" hay "cánh". Nhiều chi Avialae đã được tìm thấy còn cổ hơn chi này, bao gồm các chi như
Anchiornis,
Xiaotingia, và
Aurornis.
[2]Archaeopteryx sống vào cuối
kỷ Jura khoảng 150 triệu năm trước, tại nơi ngày nay là miền nam
Đức khi
châu Âu còn là nhiều quần đảo trong vùng biển nông nhiệt đới, gần với
đường xích đạo hơn hiện tại. Kích thước hầu hết bằng chim
ác là, cá thể lớn nhất bằng một con
quạ,
[3] Archaeopteryx có
chiều dài 0,5 m (1 ft 8 in). Chúng có kích thước nhỏ, cánh rộng, và được cho là có khả năng bay hay lướt, Archaeopteryx có nhiều đặc điểm của khủng long Đại Trung sinh hơn là chim. Về chi tiết, nó có các đặc điểm sau của nhóm deinonychosauria (
dromaeosauridae và
troodontidae): hàm có răng sắc, ba ngón tay có vuốt trên mỗi bàn tay, một cái đuôi dài, ngón chân có thể co duỗi ("killing claw"), lông vũ và nhiều đặc điểm khác.
[4][5]Những đặc điểm này khiến Archaeopteryx được coi là
hóa thạch chuyển tiếp giữa khủng long và chim.
[6][7] Do đó, Archaeopteryx đóng một vai trò quan trọng, không chỉ trong nghiên cứu
nguồn gốc chim, mà còn cả trong nghiên cứu khủng long. Chúng được đặt tên theo một hóa thạch
lông vũ năm 1861.
[8] Cùng năm đó, mẫu vật Archaeopteryx hoàn chỉnh đầu tiên được công bố. Nhiều mẫu vật Archaeopteryx đã dược phát hiện. Mặc dù có biến thể, các nhà nghiên cứu cho rằng tất cả các hóa thạch này đều của một loài duy nhất, mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi.
Mẫu vật điển hình của Archaeopteryx được phát hiện 2 năm sau khi
Charles Darwin ra mắt cuốn
Nguồn gốc các loài. Archaeopteryx đã củng cố lý thuyết của Darwin và là mảnh ghép ban đầu của bí ẩn nguồn gốc loài chim, hóa thạch chuyển tiếp và
tiến hóa.