Albeluvisols theo
Cơ sở Tham chiếu Toàn cầu về Tài nguyên Đất[1] (WRB) là loại
đất có một
tầng mặt mỏng, sậm màu, nằm trên một tầng rửa trôi (tầng albic) có những điểm lấn vào tầng tích sét (Bt) phía dưới. Theo phiên bản cập nhật 2014 của WRB, Albeluvisols được thay thế bằng
Retisols. Tầng Bt có ranh giới trên không ổn định, ngắt quãng, là hệ quả từ sự xâm lấn của vật chất tầng rửa trôi trực di xuống tầng tích tụ. Albeluvisols tương đương với các nhóm lớn Glossaqualfs, Glossocryalfs và Glossudalfs thuộc bộ
Alfisols trong
Hệ thống phân loại đất USDA.Những dạng đất thuộc loại này đa phần hình thành từ các vật liệu
trầm tích băng,
sông,
hồ kém bền, hay từ sản phẩm
trầm tích gió như đất
hoàng thổ (đất loess). Albeluvisols hình thành ở những
đồng bằng mấp mô, dưới tán
rừng lá kim hay rừng hỗn hợp trong vùng
khí hậu ôn đới và
cận bắc cực, với mùa đông lạnh cùng mùa hè mát và ngắn.Khả năng sử dụng trong
nông nghiệp của Albeluvisols bị giới hạn bởi tính
axit, hàm lượng
dinh dưỡng thấp, cùng những khó khăn trong hoạt động
canh tác và
thoát nước. Những khu vực phía Bắc cũng có một
mùa sinh trưởng và
sương muối khắc nghiệt suốt mùa đông dài. Albeluvisols ở khu vực rừng
taiga phương Bắc hầu như chỉ có dưới thềm rừng, với một diện tích nhỏ sử dụng làm
đồng cỏ chăn nuôi gia súc và tập kết
cỏ khô. Ở vùng taiga phương Nam, dưới 10% diện tích đất không có rừng che phủ được sử dụng để phục vụ hoạt động chăn nuôi
gia súc. Tại những tiểu khu phía Nam và Tây của vùng taiga nước
Nga, có mặt những loại
cây trồng nông nghiệp như
ngũ cốc,
khoai tây,
củ cải đường và
ngô làm thức ăn cho gia súc, điều đặc biệt là chúng được canh tác trên những chỗ đất sở hữu
tầng đất cái có độ bão hòa base cao.Đất Albeluvisols chiếm một diện tích khoảng 320 triệu ha thuộc
châu Âu,
Bắc Á,
Trung Á và
Bắc Mỹ. Tập trung thành hai vùng chính: