Cây lương thực là các loại cây trồng mà sản phẩm dùng làm
lương thực cho người, nguồn cung cấp chính về năng lượng và chất bột
cacbohydrat trong khẩu phần thức ăn.Đa số cây lương thực đều là cây 1 năm (hằng niên).[
cần dẫn nguồn]Năm loại
cây lương thực chính của thế giới là
ngô (Zea Mays L.),
lúa nước (Oryza sativa L.),
lúa mì (Triticum sp. tên khác: tiểu mạch),
sắn (Manihot esculenta Crantz tên khác khoai mì) và
khoai tây (Solanum tuberosum L.). Ngô,
lúa gạo và lúa mì chiếm khoảng 87% sản lượng lương thực toàn cầu và khoảng 43% calori từ tất cả mọi lương thực, thực phẩm vào năm
2003.
[1]Bốn loại cây lương thực chính của
Việt Nam là lúa, ngô, sắn và
khoai lang (Ipomoea batatas L.).Các loại
hạt cốc khác, diện tích trồng và sản lượng ít hơn, có
Đại mạch (Hordeum vulgare L.),
cao lương (Sorghum, tên khác lúa miến, mộc mạch),
kê (Setaria L.Beauv kê hạt vàng, kê đuôi chồn; Panicum miliaceum L. kê Nga; Pennisetum glaucum lúa miêu, kê trân châu, kê ngọc, kê Xu đăng; Eleusine coracana L. Gaertn),
Hắc mạch (Secale cereale, tên khác lúa mạch đen,
Tiểu hắc mạch (Triticale, Triticum x Secale, cây lai giữa tiểu mạch và hắc mạch),
Yến mạch (Avena sativa),
Kiều mạch (Fagopyrum esculentum Moench = Polygonum fagopyrum L., tên khác mạch hoa, mạch ba góc),
Fonio,
Diêm mạch.Các loại
cây có củ khác có
khoai môn (Colocasia esculenta L. Schott,
khoai sọ (Colocasia antiquorum Schott = C.esculenta L.Schott),
củ mỡ (Dioscorea alata L., tên khác củ cái, khoai vạc, khoai ngọt),
củ từ (Dioscorea esculenta (Lour) Burk tên khác khoai từ),
dong riềng (Canna edulis Ker., tên khác khoai riềng, khoai đao),
củ dong (Maranta arundinacea, tên khác dong đao, dong tây, củ bình tinh, củ trút),
khoai mài (Dioscorea persimilis Prain et Burk, tên khác củ mài, hoài sơn),
sắn dây (Pueraria thomsoni Benth),
khoai nưa (Amorphophallus rivieri Dur.).Ở
châu Phi,
chuối bột cũng được dùng làm lương thực tương tự như việc sử dụng quả
sakê (Artocarpus indisa) ở nước
Nhật. Tại
Ấn Độ, một số nước
châu Phi và một số đảo ở
Thái Bình Dương, những loại
đậu đỗ ăn hạt như
đậu trắng,
đậu đen,
đậu xanh,
đậu đỏ,
đậu trứng cuốc,
đậu nho nhe hay thân giàu tinh bột từ một số cây như cây
báng… cũng được sử dụng làm lương thực tương tự như
thực phẩm ở Việt Nam.Hạt hoặc củ của cây lương thực là thành phần chính trong khẩu phần ăn của những người dân nghèo tại nhiều
nước đang phát triển. Việc tiêu thụ này ở các
nước phát triển tuy ít hơn nhưng vẫn là đáng kể nhất.Trong một số ngôn ngữ phương Tây, cây lương thực, cây "ngũ cốc" được gọi là cereal, cereali, cerealo, zerial, có nguồn gốc từ
Ceres, tên gọi của vị nữ thần nông nghiệp và mùa màng của thời kỳ tiền La Mã. Nó dùng để chỉ các loài thực vật thuộc
họ Hòa thảo (Poaceae) được con người gieo trồng để lấy hạt có thể ăn được (về mặt thực vật học, chúng là kiểu quả gọi là
quả thóc).Trong tiếng Việt ngày nay, cây lương thực được dùng để chỉ toàn bộ nhóm
cây lương thực có hạt (Cereals for grain) và nhóm
cây củ có bột (Cereals for tuber), chủ yếu là bốn cây lương thực chính lúa, ngô, sắn, khoai lang.