Độ kiềm của nước (theo tiếng Ả Rập "al-qalī "
[1]) là khả năng đệm pH của nước, nói cách khác là khả năng chống lại sự thay đổi
pH của nước từ những tác động hoá học bên ngoài có xu hướng làm cho nước
có tính axit hơn (hay làm giảm giá trị pH của nước).
[2] (Cần chú ý phân biệt rõ giữa độ kiềm của nước với
tính kiềm, vốn được thể hiện qua một phép đo trên thang đo pH với giá trị pH lớn hơn 7). Độ kiềm thường thể hiện qua
dung dịch đệm gồm các
axit yếu và các
bazơ liên hợp của chúng, thường được đo bằng cách chuẩn độ dung dịch cần đo bằng một lượng
axit đơn cực, mạnh (thường sử dụng
HCl) cho đến khi pH của nó thay đổi đột ngột, hoặc nó đạt đến một điểm cuối đã xác định trước. Độ kiềm thường được biểu hiện bằng đơn vị
meq/L (
mili đương lượng trên
lít), tương ứng với lượng axit sử dụng như chất chuẩn độ đã được thêm vào, tính bằng đơn vị mm/L (milimol trên lít).Mặc dù độ kiềm chủ yếu là một thuật ngữ được đề xuất bởi các nhà hải dương học,
[3] nó cũng thường được sử dụng bởi các nhà thủy văn để mô tả
độ cứng tạm thời của nước. Thêm vào đó, việc xác định độ kiềm rất quan trọng để xác định khả năng trung hòa ô nhiễm axit từ
mưa hay
nước thải. Đây là một trong những phương pháp tốt nhất để xác định độ nhạy của các nguồn nước (như sông, suối, đại dương) trong ứng phó với việc phải tiếp nhận axit từ các nguồn nước chảy vào.
[4] Độ kiềm của sông suối thường thay đổi tuỳ thuộc vào ảnh hưởng từ những hoạt động của con người ở khu vực xung quanh nó.
[5]