Trong tự nhiên
liti (
3Li) bao gồm hai
đồng vị bền, liti-6 và liti-7, với đồng vị sau phổ biến hơn hẳn: chiếm khoảng 92.5% số
nguyên tử. Cả hai
đồng vị tự nhiên này có năng lượng kết nối hạt nhân thấp bất ngờ tính theo mỗi
nucleon (~5.3
MeV) khi so sánh với các nguyên tố nhẹ hơn và nặng hơn liền kề,
heli (~7.1 MeV) và
berylli (~6.5 MeV). Đồng vị phóng xạ bền nhất của liti là liti-8, với
chu kỳ bán rã chỉ có 838 milli giây. Liti-9 có chu kỳ bán rã 178 milli giây, và liti-11 có chu kỳ bán rã khoảng 1.1 milli giây. Tất cả các đồng vị còn lại của lithium có thời gian bán rã ngắn hơn 10 nano giây. Các đồng vị được biết đến có tuổi thọ ngắn nhất của liti là liti-4, bán rã bằng cách
phát xạ proton với chu kỳ bán rã khoảng &-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1.0000009.1×10−23 giây, mặc dù thời gian bán rã của lithium-3 vẫn chưa được xác định, và có thể sẽ ngắn hơn nhiều, giống như heli-2 (diproton) bị phân hủy proton chỉ trong &-1-1-1-1-1-1-1-100000000.00000010−9 giây.Liti-7 and liti-6 là hai trong số nuclid nguyên thủy được tạo ra trong Vụ Nổ Lớn, với liti-7 chiếm 10−9 trong tổng số nuclid và liti-6 chiếm khoảng 10−13.
[1] Một tỷ lệ nhỏ liti-6 được sản xuất do
phản ứng hạt nhân ở một số ngôi sao.Các đồng vị của liti tách biệt phần nào trong nhiều quá trình
địa chất học, bao gồm sự hình thành khoáng vật (sự kết tủa hóa học và trao đổi ion). Ion liti thay thế
magie hoặc
sắt ở một số vị trí bát diện trong
đất sét, và liti-6 đôi khi được ưa thích hơn liti-7. Điều này dẫn đến việc làm giàu liti-7 trong các quá trình địa chất.Liti-6 là một đồng vị quan trọng trong
vật lý hạt nhân vì nếu dùng
neutron bắn phá nó thì sẽ tạo ra
triti.