Đất sét hay
sét là một thuật ngữ được dùng để miêu tả một nhóm các
khoáng vật phyllosilicat nhôm ngậm nước (xem
khoáng vật sét), thông thường có đường kính hạt nhỏ hơn 2 μm (
micromét). Đất sét bao gồm các loại khoáng chất
phyllosilicat giàu các
ôxít và
hiđrôxít của
silic và nhôm cũng như bao gồm một lượng lớn
nước tham gia vào việc tạo cấu trúc và thay đổi theo từng loại đất sét. Đất sét nói chung được tạo ra do sự
phong hóa hóa học của các loại đá chứa silicat dưới tác động của
axít cacbonic nhưng một số loại đất sét lại được hình thành do các hoạt động thủy nhiệt. Đất sét được phân biệt với các loại hạt đất đá nhỏ khác có trong
đất, chẳng hạn như
bùn nhờ kích thước nhỏ của chúng, hình dạng tạo bông hay tạo lớp, khả năng hút nước cũng như
chỉ số độ dẻo cao.Trong các nguồn tài liệu khác nhau, người ta chia đất sét ra thành ba hay bốn nhóm chính như sau:
kaolinit,
montmorillonit-
smectit,
illit và
chlorit (nhóm cuối cùng không phải lúc nào cũng được coi là một phần của đất sét và đôi khi được phân loại như là một nhóm riêng, trong phạm vi phyllosilicat). Có khoảng 30 loại đất sét 'nguyên chất' khác nhau trong các nhóm này, nhưng phần lớn đất sét 'tự nhiên' là các hỗn hợp của các loại khác nhau này, cùng với các khoáng chất đã phong hóa khác.
Montmorillonit, với công thức hóa học (
Na,
Ca)0,33(
Al,
Mg)2
Si4
O10(
OH)2
·n
H2O, thông thường là sản phẩm được tạo ra từ phong hóa của các loại đá nghèo silica. Montmorillonit là thành viên của nhóm smectit và là thành phần chính trong
bentonit.Đất sét phiến hàng năm là loại đất sét với các lớp tạo ra hàng năm thấy rõ được, được hình thành bởi sự khác biệt theo mùa trong sự xói mòn và hàm lượng chất hữu cơ. Dạng này của trầm tích là phổ biến trong các hồ băng cũ từ thời kỳ
kỷ băng hà.
Đất sét Leda là loại duy nhất của đất sét vùng biển, thuộc loại bản địa của địa hình bị băng hà xói mòn thuộc
Na Uy,
Canada và
Thụy Điển. Nó là loại đất sét có độ nhạy cao, dễ chuyển thành thể nhão, là nguyên nhân gây ra một vài vụ lở đất nguy hiểm.