Trong
địa lý học, vùng
đồng bằng hay
bình nguyên[1] là một vùng đất đai rộng lớn với địa hình tương đối thấp — nghĩa là nó tương đối bằng phẳng, với
độ cao so với mực nước biển không quá 500 m và
độ dốc không quá 5°. Khi độ cao không quá 200 m, người ta gọi nó là đồng bằng thấp, còn khi độ cao từ 200 m tới 500 m, gọi là đồng bằng cao. Các dạng
đồng cỏ Bắc Mỹ và
đồng cỏ châu Âu là các kiểu đồng bằng, và
nguyên mẫu cho đồng bằng thường được coi là các
đồng cỏ, nhưng các vùng đồng bằng trong trạng thái tự nhiên của chúng có thể được che phủ bằng các dạng
cây bụi,
đồng rừng hay
rừng, hoặc thảm thực vật có thể thiếu vắng trong trường hợp các đồng bằng cát hay đá tại các
sa mạc. Các kiểu vùng đất bằng khác mà thuật ngữ đồng bằng nói chung không hay ít được áp dụng là những vùng bị che phủ hoàn toàn và vĩnh cửu như các
đầm lầy, các vùng
đất trũng lòng chảo (playa) hay các
dải băng.Các đồng bằng đôi khi xuất hiện như là các vùng đất thấp ở vùng đáy các
thung lũng nhưng cũng có trên các
cao nguyên ở
độ cao khá lớn. Chúng có thể được hình thành từ
dung nham chảy xuống, trầm lắng bởi nước (suối, sông hay biển), băng và gió, hay bởi
xói mòn dưới các tác động của các yếu tố này từ các sườn đồi, núi.Các vùng đồng bằng tại nhiều khu vực là quan trọng cho phát triển
nông nghiệp, do khi đất được bồi tích như là các
trầm tích thì độ sâu của nó có thể khá lớn và độ màu mỡ là khá cao, cũng như độ bằng phẳng cao thuận lợi cho quá trình cơ giới hóa sản xuất; cũng như tại các đồng bằng có thể có các đồng cỏ cung cấp thức ăn cho
gia súc.