Tinh thể học là ngành khoa học thực nghiệm nghiên cứu sự sắp xếp của các
nguyên tử ở
thể rắn. Thuật ngữ này trước đây được dùng để chỉ khoa học nghiên cứu về
tinh thể.Trước khi phát triển
tinh thể học tia X, việc nghiên cứu các tinh thể chủ yếu dựa trên dạng hình học của các tinh thể. Nó liên quan đến việc đo đạc các góc và mặt của tinh thể so với các trục tinh thể theo lý thuyết (
trục tinh thể học), và từ đó xác định dạng
hình học của tinh thể. Để đo góc của tinh thể người ta dùng
máy đo góc và vị trí của các mặt tinh thể trong không gian 3 chiều được vẽ trên
lưới chiếu nổi như
lưới Wulff hoặc
lưới Lambert. Trên thực tế thì
cực của mỗi mặt được vẽ trên lưới chiếu. Mỗi điểm này được đánh dấu một ký hiệu cùng với
chỉ số Miller. Hình vẽ cuối cùng cho phép xác định dạng hình học của tinh thể cần xác định.Các phương pháp tinh thể học hiện tại phụ thuộc vào việc phân tích các yếu tố
nhiễu xạ phát ra từ mẫu khi chiếu các chùm tia sáng. Tia sáng không phải lúc nào cũng là
bức xạ điện từ, tuy nhiên các
tia X là lựa chọn phổ biến nhất. Trong một số trường hợp, người ta sử dụng
điện tử hoặc
neutron do nó có tính chất sóng hạt. Các nhà tinh thể học thường chỉ ra một cách rõ ràng kiểu chiếu sáng khi dùng phương pháp này như các thuật ngữ
nhiễu xạ tia X, nhiễu xạ neutron và
nhiễu xạ điện tử.Ba kiểu bức xạ trên tương tác với mẫu vật theo nhiều cách khác nhau.
Tia X tương tác với sự phân bố không gian của các
điện tử hóa trị, trong khi các
điện tử tích điện và sau đó phân bố lại điện tích trên cả
hạt nhân nguyên tử và các điện tử xung quanh.
Neutron bị tán xạ bởi hạt nhân nguyên tử qua các
lực hạt nhân mạnh, nhưng thêm vào đó
mômen từ của các neutron thì khác không. Vì thế, chúng cũng bị tán xạ bởi
từ trường. Khi các neutron bị tán xạ từ các vật liệu chứa hydro, chúng tạo ra các dạng nhiễu xạ với độ ồn cao. Tuy nhiên, đôi khi vật liệu có thể được xử lý để thay thế
hydro bởi
deuterium. Do các dạng tương tác khác nhau này nên ba kiểu bức xạ này thích hợp cho các dạng nghiên cứu tinh thể học khác nhau.