Sự tích trầu cau là một tác phẩm trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, có từ khoảng năm 2000
trước công nguyên thời
vua Hùng và được ghi lại trong sử thi "
Lĩnh Nam Chích Quái"
[1]. Câu chuyện này
nhân cách hóa nguồn gốc của cây cau, cây trầu không và tảng đá vôi là những thứ được sử dụng để ăn trầu cũng như giải thích tục lệ sử dụng trầu cau trong các đám cưới. Trong kho tàng
truyện cổ tích Việt Nam, có
Sự tích trầu cau. Câu chuyện này nhân cách hóa nguồn gốc của cây
cau, cây
trầu không và tảng đá
vôi là những thứ được sử dụng để
ăn trầu cũng như giải thích tục lệ sử dụng trầu cau trong các
lễ cưới người Việt. Cho đến ngày nay, trầu cau vẫn là thứ không thể thiếu trong việc giao hiếu, kết thân và
cưới hỏi của
người Việt.
Bình vôi ăn trầu từng là một vật không thể thiếu trong việc giao tế cũng như lễ nghi gắn liền với tục ăn trầu.Sự tích thuộc dạng
văn học truyền miệng và có nhiều dị bản. Câu chuyện kể là vào đời vua
Hùng Vương thứ ba có hai anh em Tân và Lang rất thương yêu nhau. Tân sau khi có vợ thì không còn chăm sóc đến em như trước nữa. Lang lấy làm buồn rầu và bỏ nhà ra đi. Tới bên bờ suối thì Lang mệt quá, gục xuống chết và hóa thành tảng đá
vôi. Tân, không thấy em về, vì thương em nên quyết đi tìm. Đi đến bờ suối thì Tân mệt lả và chết, biến thành cây
cau bên tảng đá vôi. Vợ Tân không thấy chồng cũng bỏ đi tìm. Nàng tìm đến bờ suối, ngồi dựa vào thân cau mà chết, biến thành dây
trầu không. Trầu, cau và vôi khi quyện lại với nhau tạo ra sắc đỏ như máu nên sau có vua
Hùng Vương đi tuần qua đó, nghe thấy câu chuyện trên mà dạy cho dân Việt hãy dùng ba thứ vôi, cau và trầu làm biểu tượng tình nghĩa thắm thiết anh em, vợ chồng. Ngôi đền thờ ba người hiện nay là đền Tam Khương ở làng Nam Hoa, huyện Nam Đàn (
Nghệ An) mà các triều đại phong kiến vẫn có sắc phong tặng.