Mirin (
味醂/ みりん (vị lẩm),
Mirin?)
[miɾiɴ] là một loại
gia vị thiết yếu được sử dụng trong
ẩm thực Nhật Bản. Nó là một loại
rượu gạo tương tự như
sake, nhưng với hàm lượng
cồn thấp hơn và hàm lượng đường cao hơn.
[1] Lượng đường này là một carbohydrate phức tạp hình thành tự nhiên trong quá trình lên men; người ta không thêm đường vào đó. Hàm lượng cồn được hạ thấp hơn nữa khi chất lỏng được đun nóng.Có ba loại mirin nói chung. Loại đầu tiên là hon mirin (nghĩa là mirin thật),
[2] có chứa khoảng 14% cồn và được tạo ra bởi quá trình
ngâm gạo vào nước ấm (
đường hoá) trong khoảng bốn mươi tới sáu mươi ngày.
[3][4] Loại thứ hai là shio mirin, chứa hàm lượng cồn dưới 1.5% để tránh thuế đồ uống có cồn.
[5] Loại thứ ba là shin mirin (nghĩa là mirin mới),
[6] hoặc mirin-fu chomiryo (nghĩa là làm vị như mirin),
[7] chứa ít hơn 1% lượng cồn mà vẫn giữ được cùng hương vị.Trong
thời kỳ Edo, mirin được thưởng thức dưới dạng
amazake.
[8] Otoso, việc thưởng thức truyền thống vào
Shōgatsu, có thể được làm bằng cách ngâm một hỗn hợp gia vị trong mirin.
[9]Trong phong cách ẩm thực
Kansai, mirin được đun sôi nhẹ trước khi thưởng thức, để cho một phần rượu dậy mùi, trong khi với phong cách khu vực
Kantō, mirin được thưởng thức trực tiếp không qua đun nóng. Loại rượu mirin đun sôi phong cách Kansai được gọi là nikiri mirin (煮切り味醂)
[10] (nghĩa là mirin đun sôi kĩ).Mirin được sử dụng để tạo mùi vị tươi cho món cá kẹp vỉ (nướng), hoặc để giảm bới mùi tanh. Một lượng nhỏ mirin thường được sử dụng thay thế cho
đường và
nước tương. Tuy nhiên, không nên sử dụng quá mức vì hương vị của nó khá mạnh. Nó đôi khi được sử dụng kèm với
sushi. Mirin được sử dụng trong loại sốt cho
teriyaki.
[7]Ngày 30 tháng 11 hằng năm được công nhận là ngày của hon-mirin bởi ngành công nghiệp mirin, vì trong
tiếng Nhật, từ chỉ ngày này được phát âm giống như '11' (いい, tốt) và '30' (みりん, mirin).
[4]