Lãnh thổ Orleans (
tiếng Anh: Territory of Orleans) là một
lãnh thổ hợp nhất có tổ chức trong lịch sử của
Hoa Kỳ. Nó được hình thành từ sự phân chia lần thứ nhất
Vùng đất mua Louisiana. Tất cả bộ phận của Vùng đất mua Louisiana nằm về phía nam
vĩ tuyến 33 độ Bắc trở thành
Lãnh thổ Orleans và phần còn lại trở thành
Địa khu Louisiana. (Địa khu Louisiana sau đó được đặt tên lại thành
Lãnh thổ Louisiana. Khi Lãnh thổ Orleans trở thành
tiểu bang Hoa Kỳ Louisiana thì Lãnh thổ Louisiana được đặt tên lại thành
Lãnh thổ Missouri vì muốn tránh nhầm lẫn trong tên gọi). Lãnh thổ Orleans được thành lập ngày
1 tháng 10 năm
1804[1] bởi Đạo luật Tổ chức ngày
26 tháng 3 năm
1804 và trở thành tiểu bang
Louisiana, tiểu bang thứ 18 của Hoa Kỳ vào ngày
30 tháng 3 năm
1812[2].Ngày
10 tháng 4 năm
1805, Lập pháp Lãnh thổ đã tổ chức 12
quận (bắt đầu từ gốc đông nam sang tây và đến bắc): Quận Orleans, Quận LaFourche, Bờ Đức (German Coast), Quận Acadia, Quận Iberville, Quận Attakapas, Quận Pointe Coupée, Quận Opelousas, Quận Rapides, Quận Concordia, Quận Natchitoches và Quận Ouachita.
Các quận Florida trên bờ đông Sông Mississippi không được tính vào Lãnh thổ Orleans vào lúc đó vì chúng vẫn còn thuộc lãnh thổ
Tây Florida của
Tây Ban Nha cho đến khi chúng bị sáp nhập vào năm
1810. Ranh giới miền tây với
Texas thuộc Tây Ban Nha không được xác định rõ cho đến
Hiệp ước Adams-Onís năm 1819. Một dải đất được biết với tên gọi là
Quốc gia Tự do Sabine nằm ngay phía đông
Sông Sabine phục vụ như một vùng trái độn trên đất liền từ khoảng năm 1807 đến năm 1819.