Friedrich Julius Wilhelm Graf von Bose (
12 tháng 9 năm
1809 –
22 tháng 7 năm
1894) là một tướng lĩnh trong
quân đội Phổ, đã có nhiều đóng góp đến việc thành lập
Đế quốc Đức tháng 1 năm
1871.
[1] Ông
chỉ huy một
lữ đoàn Phổ trong cuộc
Chiến tranh Áo-Phổ và chỉ huy
Quân đoàn XI của
Phổ trong cuộc
Chiến tranh Pháp-Đức.Vào năm
1821, Bose trở thành một lính hầu trong cung đình
Weimar. Bose đã nhập ngũ trong
Trung đoàn Bộ binh số 126 của Phổ vào năm
1826. Đến năm
1829, ông trở thành một
sĩ quan. Từ năm
1832 cho tới năm
1835, ông đã học tại
Viện Hàm lâm Quân sự Phổ, và đây là một điều kiện tiên quyết để gia nhập
Bộ Tổng tham mưu Phổ. Bose đã phục vụ với vai trò là một
sĩ quan phụ tá ở các vị trí khác nhau từ năm
1835 cho đến năm
1852. Năm
1853, ông trở thành một
thiếu tá trong Bộ Tổng tham mưu. Vào năm
1858, Bose đã trở thành tham mưu trưởng của Quân đoàn IV. Vào năm
1860, ông được thăng quân hàm
Đại tá và trao quyền chỉ huy một
trung đoàn bộ binh. Một năm sau, ông được giao một chân trong
Bộ Chiến tranh Phổ. Bose được phong cấp
Thiếu tướng vào năm
1864, và chỉ huy
Lữ đoàn Bộ binh số 15 trong cuộc
Chiến tranh Áo-Phổ năm
1866.Trong
trận Podol, Bose đã mang lại cho
quân đội Phổ
chiến thắng lớn đầu tiên của họ trong cuộc
chiến tranh với
Áo, tạo điều kiện cho ba
tập đoàn quân của Phổ tiến hành hợp vây quân đội Áo.
[2] Ngoài ra, ông cũng thể hiện khả năng của mình tại
Münchengrätz và
Sadowa. Trong
trận đánh cuối cùng của cuộc chiến vào ngày
22 tháng 7 năm 1866, ông được lệnh tiến theo một đường
núi với hai trung đoàn Phổ đã bọc hậu quân Áo, trong khi tướng
Fransecky tấn công trực diện vào chiến tuyến của đối phương. Bose đã hoàn tất nhiệm vụ của mình và tại đỉnh Gämsen Berg, các lực lượng dưới quyền của ông đã giao chiến quyết liệt với một lữ đoàn
Áo và đập tan lữ đoàn này. Đường rút của các lực lượng Áo giao tranh với Fransecky đã bị cắt một khi họ bị đánh bại. Mặc dù vậy, hiệp ước đình chiến giữa hai nước vốn đã được khởi đầu trong khi trận đánh còn tiếp diễn, và khoảng thời gian cố định sau khi hiệp định đình chiến mở màn đã chấm dứt trận chiến này. Sau khi chiến tranh kết thúc, ông được thăng quân hàm
Trung tướng và chỉ huy
Sư đoàn Bộ binh số 20.Trong cuộc
Chiến tranh Pháp-Đức (
1870 –
1871), ông được giao quyền chỉ huy
Quân đoàn XI, một phần thuộc Tập đoàn quân số 3 của
Đức dưới quyền tổng chỉ huy của
Thái tử Friedrich Wilhelm. Các lực lượng dưới quyền ông đã đóng một vai trò trong
chiến thắng của các lực lượng Đức với quân số áp đảo ở
trận chiến Wissembourg vào ngày
4 tháng 8 năm
1870.
[3] Là một viên tướng ưa thích tấn công và biết phối hợp các binh chủng, ông đã góp phần đến chiến thắng vang dội của quân đội Phổ - Đức trước
quân đội Pháp dưới quyền
Thống chế Patrice de Mac-Mahon trong
trận đánh Wœrth vào ngày
6 tháng 8 năm 1870.
[2][4] Ông đã bị thương trong trận chiến này, và điều đó khiến cho ông không thể tham chiến cho đến năm 1871.Nhờ những cống hiến của mình cho quân đội Phổ trong cuộc chiến, ông đã được ban thưởng 10 vạn
thaler. Vào năm
1880, ông được phong làm
Bá tước.