Heinrich Otto Wieland (4.6.
1877 – 5.8.
1957) là
nhà hóa học người
Đức. Ông đã đoạt
giải Nobel Hóa học năm 1927 cho công trình nghiên cứu về
axít mật.
[1][2][3] Năm 1901 Wieland đậư bằng
tiến sĩ tại
Đại học München khi nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của
Johannes Thiele. Năm 1904 ông hoàn tất
habilitation của mình
[4], rồi dạy ở trường đại học. Đầu năm 1907 ông làm cố vấn cho công ty dược phẩm
Boehringer-Ingelheim. Năm 1914 ông làm phó giáo sư dạy các đề tài đặc biệt về
hóa học hữu cơ, và làm Giám đốc ngành Hóa học hữu cơ của Phòng thí nghiệm quốc gia ở München. Từ năm 1917 tới năm 1918 Wieland làm việc trong
Viện Hóa Lý và Điện hóa học Kaise Wilhelm (Kaiser Wilhelm Institute for Physical Chemistry and Elektrochemistry) ở
Dahlem do
Fritz Haber lãnh đạo
[5] thay cho nghĩa vụ quân sự thông thường. Tại đây ông tham gia vào việc nghiên cứu
vũ khí, chẳng hạn việc tìm chất tổng hợp mới cho
khí mustard[6]. Ông cũng được công nhận là người đầu tiên tìm ra việc tổng hợp chất
Adamsite[7].Từ năm 1913 tới 1921, ông làm giáo sư ở
Đại học Kỹ thuật München. Sau đó ông chuyển tới
Đại học Freiburg làm người kế thừa
Ludwig Gattermann. Tại Freiburg ông bắt đầu nghiên cứu về độc chất của cóc và các "axít mật". Kết hợp với công ty dược phẩm Boehringer-Ingelheim ông làm các alkaloid tổng hợp, chẳng hạn như
morphine và
strychnineNăm 1925 Wieland kế thừa
Richard Willstätter làm giáo sư hóa học tại
Đại học München.
[8]Năm 1941, Wieland cô lập chất độc
alpha-amanitin[9], nhân tố hoạt động chính của một trong các nấm độc nhất là
Nấm tử thần.Wieland đã che chở thành công các người khác, nhất là các sinh viên
Do Thái, những người là "gánh nặng chủng tộc" (racially burdened) theo
Luật Nuremberg[10]. Các sinh viên đã bị trục xuất vì là gánh nặng chủng tộc có thể ở lại làm việc trong nhóm của Heinrich Wieland như các nhà hóa học hoặc như "Gäste des Geheimrats" (các khách của Hội đồng cơ mật).Sau khi quyên góp tiền cho Clara Huber, vợ góa của
Kurt Huber, thì
Hans Conrad Leipelt, một sinh viên của Wieland, đã bị xử tử hình.