Edmontosaurus (
/ɛdˌmɒntəˈsɔːrəs/ ed-MON-toh-SAWR-əs) là một
chi khủng long hadrosauridae. Chi này gồm hai loài được biết đến:
Edmontosaurus regalis và
Edmontosaurus annectens. Hóa thạch E. regalis được tìm thấy ở các lớp đá miền tây
Bắc Mỹ, vào thời kỳ
Champagne của
kỷ Creta (khoảng 73 triệu năm về trước), trong khi E. annectens được tìm thấy ở cùng khu vực nhưng vào thời kỳ
Maastricht, 66 triệu năm trước. E. annectens là một trong những;oài khủng long phi điểu cuối cùng, sống cùng thời gian với loài
Triceratops horridus và
Tyrannosaurus rex ngay trước
sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-Paleogen.Edmontosaurus là một trong những chi hadrosauridae lớn nhất, dài 12 mét (39 ft) và nặng khoảng 4,0 tấn (4,4 tấn thiếu). Nhiều mẫu vật tốt nhất không chỉ có xương, vài trường hợp còn có những mảng da lớn. Được xem là một chi của phân họ
saurolophinae (hoặc
hadrosaurinae), một nhóm hadrosauridae không có mào lớn, rỗng, thay vào đó là một cái mào nhỏ cứng hay mào thịt.
[1]Edmontosaurus có lịch sử phân loại rắc rối vào cuối thế kỷ 19. Mẫu vật Edmontosaurus bị đặt dưới nhiều tên chi như
Claosaurus,
Diclonius,
Hadrosaurus,
Thespesius, và
Trachodon,
Anatosaurus và
Anatotitan hiện nay đều được xem là đồng nghĩa với Edmontosaurus. Hóa thạch đầu tiên được đặt tên Edmontosaurus phát hiện ở miền bắc
Alberta, tại
thành hệ Horseshoe Canyon.
Loài định danh, E. regalis, được
Lawrence Lambe đặt tên năm 1917. E. annectens, ban đầu được
Othniel Charles Marsh đặt tên năm 1892 là
Claosaurus annectens và được biết đến như là Anatosaurus annectens trong vài năm.Edmontosaurus phân bố rộng khắp vùng miền tây Bắc Mỹ. Phân bố hóa thạch Edmontosaurus cho thấy chúng sống quanh các
đồng bằng ven biển. Chúng là khủng long
ăn thực vật có thể đi bằng hai hoặc cả bốn chân. Edmontosaurus được cho là sống theo bầy, và có lẽ có tập tính di cư.