A-xà-lê (zh. 阿闍梨, sa. ācārya, pi. ācāriya, bo. lobpon [slob-dpon], ja. ajari), theo ngài
Huyền Trang dịch nghĩa bao gồm:Do đó, A-xà-lê thứ nhất là một vị đủ phẩm hạnh và thành tựu để làm thầy của một
Sa di hoặc một
Tỳ kheo, thứ hai có thể là một
Hoà thượng (sa. upādhyāya). Sa-di nào mới nhập
Tăng-già đều tự chọn hai vị nói trên làm thầy trực tiếp chỉ dạy. Có năm loại A-xà-lê (ngũ chủng A-xà-lê) là Xuất gia A-xà-lê, Thọ giới A-xà-lê, Giáo thọ A-xà-lê, Tiếp dẫn A-xà-lê và y chỉ A-xà-lê.Trong thời gian đầu, A-xà-lê được hiểu là một vị chỉ chuyên dạy về lý thuyết Phật pháp, trả lời tất cả những thắc mắc, câu hỏi về giáo lý, như vậy có thể hiểu là một Pháp sư và vị Hoà thượng chuyên lo dạy về giới luật và nghi lễ, là Giới sư. Trong
Phật giáo nguyên thuỷ, chức vị Hoà thượng được coi trọng hơn nhưng sau đó (sau
thế kỉ thứ 5), chức vị A-xà-lê lại được đặt cao hơn Hoà thượng. A-xà-lê được dùng để chỉ những vị Cao tăng phát triển những tư tưởng mầm mống trong Phật giáo, viết những luận giải (sa. śāstra) quan trọng. Các Đại sư Ấn Độ đều mang danh hiệu này trước tên chính của họ, ví dụ như A-xà-lê
Long Thụ (sa. ācārya nāgārjuna), A-xà-lê
Thánh Thiên (sa. ācārya āryadeva), A-xà-lê
Vô Trước (sa. ācārya asaṅga) v.v...A-xà-lê khác với
Đạo sư ở một điểm, đó là các vị tu tập trong khuôn khổ của một tu viện, Thụ giới đầy đủ và dựa trên kinh điển giảng dạy. Danh từ Đạo sư thì bao trùm hơn (dựa theo nguyên ngữ Phạn guru), vị này có thể, nhưng không nhất thiết phải giảng dạy trong một chùa hoặc thiền viện và đặc biệt trong các hệ thống Tantra của các vị
Đại thành tựu (sa. mahāsiddha), danh từ Đạo sư dùng để chỉ những người có đầy đủ các
phương tiện giáo hoá chúng sinh, hướng dẫn khác thường, tuỳ cơ ứng biến, không cứ gì phải tu học từ trong kinh sách.Trong
Thiền tông, danh từ A-xà-lê, hoặc gọi tắt là Xà-lê, được dùng chỉ chung các vị tăng, tương tự như danh từ
Lạt-ma tại
Tây Tạng. Tại
Nhật, danh xưng này chuyên chỉ các vị cao tăng của các tông Thiên Thai và Chân ngôn.