Thực đơn
Tiếng Naxi Phương ngữTiếng Nạp Tây theo nghĩa rộng (bao gồm cả Nạp/Ma Thoa) ban đầu được các nhà ngôn ngữ học Hòa Tức Nhân (和即仁, He Jiren) và Khương Trúc Nghi (姜竹仪, Jiang Zhuyi) chia thành 2 cụm chính là Tiếng Nạp Tây miền Tây và Tiếng Nạp Tây miền Đông.[5]
Tiếng Nạp Tây miền Tây (纳西语西部方言, Nạp Tây ngữ Tây bộ phương ngôn) là tương đối đồng nhất. Nó được nói chủ yếu tại huyện cũ Lệ Giang (hiện nay là quận Cổ Thành và huyện Ngọc Long), các huyện Trung Điện (Shangri-La), Duy Tây và Vĩnh Thắng. Các cụm dân cư nhỏ hơn nói tiếng Nạp Tây miền Tây được tìm thấy tại Hạc Khánh, Kiếm Xuyên, Lan Bình, Đức Khâm, Cống Sơn, Ninh Lạng (tại thôn Bá Bì Tượng 坝皮匠村, hương Vĩnh Ninh 永宁乡) Mộc Lý (ở Nga Á 俄亚), Diêm Biên (Đạo Tứ 道咀), và Tây Tạng (ở Mang Khang 芒康). Tổng cộng có trên 240.000 người nói. Tiếng Nạp Tây miền Tây bao gồm các phương ngữ Đại Nghiên, Lệ Giang Bá và Bảo Sơn Châu (He & Jiang 1985: 752).
Tiếng Nạp Tây miền Đông (纳西语东部方言, Nạp Tây ngữ Đông bộ phương ngôn) bao gồm vài loại phương ngôn không thể hiểu được lẫn nhau. Nó được nói chủ yếu tại các huyện Diêm Nguyên, Mộc Lý và Diêm Biên. Tiếng Nạp Tây miền Đông cũng được các cụm dân cư nhỏ tại các huyện Vĩnh Thắng (ở Chương Tử Đán 獐子旦), Duy Tây (ở Kì Tông 其宗[6]), và Lệ Giang (ở Hải Long 海龙 và Phụng Khoa 奉科[7]). Tổng cộng có trên 40.000 người nói (He & Jiang 1985: 754).
Thực đơn
Tiếng Naxi Phương ngữLiên quan
Tiếng Tiếng Anh Tiếng Việt Tiếng Latinh Tiếng Pháp Tiếng Nhật Tiếng Hàn Quốc Tiếng Phạn Tiếng Trung Quốc Tiếng TháiTài liệu tham khảo
WikiPedia: Tiếng Naxi