Thuyết tiến hoá tổng hợp là học thuyết tiến hoá hiện đại, tổng hợp các thành tựu khoa học từ
học thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin,
di truyền học Mendel và nhất là
di truyền học quần thể cùng một số môn khoa học khác liên quan, do nhiều nhà khoa học xuất sắc trên thế giới về sinh học tiến hoá xây dựng nên.
[1],
[2],
[3],
[4],
[5],
[6] Thuật ngữ này trong
tiếng Anh là "
Modern Synthesis 20th century", đã được dịch ra tiếng Việt là thuyết tiến hoá tổng hợp hiện đại thế kỉ XX.
[7]Đây là một lý thuyết khoa học có tính chất tổng hợp các lý luận khoa học về quá trình tiến hóa của sinh vật, hình thành vào những năm 1930 và 1940 với sự đóng góp chủ yếu của
Julian Huxley,
G. Ledyard Stebbins,
Theodosius Dobzhansky,
John Burdon Sanderson Haldane,
Ronald Fisher,
Sewall Wright,
G. Ledyard Stebbins và
Ernst Mayr.
[2],
[3] Ngoài ra còn có những đóng góp khác từ những ý tưởng từ thế kỷ trước của
William Bateson,
Udny Yule (từ năm 1902), sau đó là của
Ronald Fisher (từ năm 1918) và của
E. B. Ford,
Bernhard Rensch,
Ivan Schmalhausen và
George Gaylord Simpson.Thuật ngữ này đã được viết đầy đủ hơn trong
tiếng Anh là "Evolutionary modern synthesis Theory", nhưng thực ra là bắt nguồn từ thuật ngữ
The Modern Synthesis (Tổng hợp hiện đại) mà
Julian Huxley đề xuất trong tác phẩm nổi tiếng của ông xuất bản lần đầu vào năm 1942 với tựa đề cùng tên về tiến hoá.
[8]Thuyết tiến hóa tổng hợp không chỉ kết hợp và dung hoà các kiến thức tinh tuý về
chọn lọc tự nhiên của
Charles Darwin với di truyền học
Mendel, mà còn tổng hợp thêm các thành tựu hiện đại trong di truyền học quần thể, phân loại học, cổ sinh học đương thời nhằm giải thích quá trình tiến hóa của sinh giới dựa trên các thay đổi về di truyền trong quần thể dẫn đến sự hình thành loài mới (tiến hoá nhỏ) và các nhóm phân loại lớn hơn (tiến hoá lớn).
[3],
[9] Thuyết tiến hóa tổng hợp ngay từ khi ra đời đã được hầu hết các nhà khoa học chấp nhận. Sự ra đời của nó đã chấm dứt thời kỳ mơ hồ trong sinh học tiến hoá mà chỉ riêng học thuyết
Darwin hoặc học thuyết Mendel không thể giải thích được do hạn chế của khoa học thế kỷ 19 (khi đó khoa học chưa biết tới
gien di truyền). Sau khi xuất hiện, nó còn được gọi với tên là
học thuyết Darwin mới (Neo-Darwinian Theory), nay vẫn đôi khi dùng.Tuy nhiên gần đây, các lý thuyết tổng hợp khác nhau về quá trình tiến hoá đã phát triển trên nhiều lĩnh vực khác dẫn đến sự thay đổi đến mức có thể thuyết tiến hoá tổng hợp hiện đại sẽ được gọi bằng cái tên
hậu hiện đại do các thành tựu của
E. O. Wilson (năm 1975) và thuyết tiến hoá tổng hợp mở rộng của
Massimo Pigliucci (năm 2007), mà theo nhà sinh học tiến hóa
Eugene Koonin (năm 2009) thì sẽ có những thay đổi mang tính cách mạng nhờ các thành tựu trong sinh học phân tử về tiến hoá phân tử và khám phá mới về bộ gen của các loài.
[10]