Thuyết_siêu_việt
Thuyết_siêu_việt

Thuyết_siêu_việt

Thuyết siêu việt là một đức tin hơn là triết học, nó mang tính tiên tri hơn là tư biện, khẳng định hơn là đặt câu hỏi, và nó đến với triết học để tìm thấy sự xác nhận đức tin, không phải để kiểm tra lại những nền tảng của mình".Thuyết siêu việt đóng vai trò quan trọng nhất với triết học và đời sống văn hóa chung của đất nước trong số những phát triển khác nhau của nửa đầu thế kỷ XIX. Giống như thời kỳ Khai sáng (thời Khai minh) ở Mỹ, nó là một bộ phận của phong trào toàn thế giới, đó là chủ nghĩa lãng mạn đầu thế kỷ XIX. Ở Hoa Kỳ, đặc biệt là ở New England, nó có thể được hiểu trước hết là một phần của phản ứng chống lại thuyết Calvin, phát triển từ thuyết Nhất vị, và một phần là phản ứng chống lại một loại thuyết duy lý do thời Khai minh đại diện, mặc dù, như đã lưu ý ở trên, chính trong ở một số khía cạnh dưới những hoàn cảnh đặc biệt ở Mỹ, nó được tiếp tục. Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn ĐứcAnh, của Jean-Jacques Rousseau, một phần nào đó của các nhà duy tâm Đức sơ kỳ (đặc biệt là Kant, thường được giới thiệu cho độc giả Mỹ bằng loại sách "Hỗ trợ suy tư" của người Anh, chẳng hạn như công trình cùng tên của Coleridge), thậm chí bằng tôn giáotriết học phương Đông, thuyết siêu việt hầu như không phải là một phong trào có nguồn gốc từ triết học. Tuy nhiên, thật đúng khi nói rằng thuyết siêu việt có nguồn gốc bản địa của nó. Thuyết siêu việt tương ứng với nhu cầu và khát vọng của thế hệ mình và những ý niệm mà nó tiếp thu từ châu Âu thường là những gì nó đã phấn đấu để xây dựng cho chính mình.[1]Các đại diện hàng đầu của phong trào này là: William Ellery Channing (1780-1842), mà tác phẩm Unitarian Christianity của ông đánh dấu ông là đối thủ của thuyết Calvin và là người mở đường của phong trào mới; Theodore Parker (1810-1860), một giáo sĩ theo thuyết Nhất vị khác, một trong những con người uyên bác nhất của thời mình và là một trong những người tích cực nhất trong phong trào chống nô lệ và các phong trào cải cách khác; Ralph Waldo Emerson (1803-1882); Henry David Thoreau (1817-1862); Bronson Alcott (1799-1888); George Ripley (1802-1880); Orestes A. Brownson, sau này cải đạo sang Công giáo và là cây viết triết học và luận chiến Công giáo nổi tiếng nhất của nước Mỹ thế kỷ XIX; Margaret Fuller và các chị em Peabody. Các nhà văn nổi tiếng Walt Whitman (1819-1892) và Herman Melville (1819-1891), cũng như Henry James, Sr., bạn của Emerson, một nhà tư tưởng tôn giáo và triết học mà người ta không phân biệt được với hai người con trai nổi tiếng, chịu ảnh hưởng bởi phong trào này. Chúng ta cũng nên đề cập đến James Marsh, Caleb Sprague Henry và Frederick Henry Hedge.Chính những tên tuổi của các nhà siêu việt đã cho thấy sự đa dạng của phong trào này. Và chính cái tên thuyết siêu việt, (transcendentalism), mặc dù phần nào là không chính danh, nhưng lại thích hợp ít nhiều cho "giấc mơ của con người" tin rằng con người có thể đạt được mục tiêu vượt ra ngoài tầm hiểu biết của thuyết duy cảm giác gắn liền với trần thế. Chúng ta không thể hiểu thuyết siêu việt một cách đúng đắn nếu ta xem nó quá hẹp dưới dạng một triết học, dù là triết học Kant hay một triết thuyết nào khác. Nó không phải là một hệ thống triết học mà là một thái độ của tinh thần, đó là niềm tin vào sự thiêng liêng cư ngụ trong tự nhiên và trong linh hồn, niềm tin vào những khả thể vô hạn vốn có trong mối quan hệ này. Ý nghĩa của nó không chỉ nằm ở tầm nhìn triết học về con người và thế giới, mà còn ở cương lĩnh của nó dành cho sự hoàn thiện cá nhân và sự canh tân của xã hội.[2]Sự hiểu lầm về chính thuật ngữ transcendental(của Kant. ND) đã tiết lộ tri thức không sâu sắc về Kant của những người theo thuyết siêu việt của Mỹ. Đối với ​​Kant, transcendental (siêu nghiệm) đại diện cho các điều kiện chủ quan, tiên nghiệm của mọi kinh nghiệm. Nó chỉ các phạm trù tiên nghiệm của tư duy áp đặt vào cho cái đa tạp của kinh nghiệm giác quan để mang lại cho nó ý nghĩa và tính quan yếu khoa học. Ngược lại, thuật ngữ siêu việt (transcendent) lại có nghĩa là tất cả những gì nằm bên ngoài phạm vi của nhận thức; nó đại diện cho sự tư biện siêu hình học, tức hiểu biết thuần túy trí tuệ, tư duy mà không có ý nghĩa. Không may thay, trong tiếng Anh, từ transcendental (siêu nghiệm) lại được sử dụng như một từ đồng nghĩa với transcendent (siêu việt), và kết quả là sự phân biệt của ​​Kant giữa hai thuật ngữ này đã bị mất đi.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thuyết_siêu_việt http://womenshistory.about.com/bltranscend.htm http://www.transcendentalists.com/ http://buddhiststudies.berkeley.edu/people/faculty... http://buddhiststudies.berkeley.edu/people/faculty... http://plato.stanford.edu/entries/transcendentalis... http://transcendentalism-legacy.tamu.edu/ http://xroads.virginia.edu/~ma95/finseth/thesis.ht... //hdl.handle.net/2027.42%2F43810 //doi.org/10.1163%2F1568527952598549 http://www.49thparallel.bham.ac.uk