Thơ Nguyễn_Đề

Thanh Quyết giangQuần sơn liêu tịch dã thê lươngThanh Quyết tân đầu cảnh khả thươngNhất đới trường giang yên thuỷ thệKỷ đôi tàn luỹ thảo đài hoangBắc nam tận thuộc kim dư bảnThắng phụ không lưu cổ chiến trườngTrù trướng bất kham tuân vãng sựĐình tiên tiếu chước điếu tà dươngSông Thanh QuyếtNúi non vắng vẻ ruộng thê lươngCảnh bến đò này thực đáng thươngMột giải sông dài mây nước cuốnMấy mô thành cũ cỏ rêu hoangBắc nam nay đã chung đồ bảnThua được còn bao dấu chiến trườngNgao ngán việc xưa không muốn hỏiDừng cương nhắp chén viếng tà dương.(Đỗ Ngọc Toại dịch)
  • Phụ chép một bài thơ của Nguyễn Du gửi cho anh là Nguyễn Đề:
Ức gia huynhLục tháp thành nam hệ nhất quanHải Vân dạ độ thạch toàn ngoan.Cùng xu lam chướng tam niên thú,Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn.Nhất biệt bất tri hà xứ trú,Trùng phùng đương tác tái sinh khan.Hải thiên mang điểu thiên dư lý,Thần phách tương cầu mộng diệc tan.Dịch nghĩa:Nhớ anh.Một chức quan buộc anh ở phía nam tòa thành sáu tháp[4],Ban đêm vượt đèo Hải Vân đá lởm chởm.Ba năm đóng thú ở vùng núi lam chướng,Tiết tháng Hai lạnh lẽo, nhìn hoa khói quê nhà.Một phen từ biệt, không biết nay ở nơi nào?Cuộc trùng phùng có lẽ phải đợi đến kiếp sau.Trời bể mênh mông, đường xa nghìn dặm,Hồn phách tìm nhau, dầu trong giấc mộng cũng khó.