Nereid_(vệ_tinh)
Nereid_(vệ_tinh)

Nereid_(vệ_tinh)

Nereidvệ tinh tự nhiên lớn thứ ba của Sao Hải Vương. Nó có một quỹ đạo có độ lệch tâm cao. Nó là vệ tinh thứ hai của Sao Hải Vương được phát hiện, bởi Gerard Kuiper năm 1949.Nereid được phát hiện vào ngày 1 tháng 5 năm 1949 bởi Gerard P. Kuiper trong các tấm ảnh được chụp với kính viễn vọng 82 inch tại Đài quan sát McDonald Observatory. Ông đề xuất cái tên trong báo cáo phát hiện của mình. Nó được đặt tên theo các Nereid, các nữ thần biển cả trong thần thoại Hy Lạp và là người hầu của thần Neptune. Nó là vệ tinh thứ hai và cuối cùng được phát hiện trước chuyến ghé thăm của tàu Voyager 2 (không tính quan sát duy nhất của một sự che khuất của Larissa vào năm 1981).

Nereid_(vệ_tinh)

Suất phản chiếu 0.155[4]
Bán kính trung bình &0000000000170000.000000170+25
− km[4]
Bán trục lớn &0000005513787000.0000005513787 km (&0000005512681534.9634000.03685 AU)
Độ lệch tâm &0000000000000000.7507000.7507[2][3]
Vệ tinh của Sao Hải Vương
Khám phá bởi Gerard P. Kuiper[1]
Cận điểm quỹ đạo &0000001372000000.0000001372000 km (0.00917 AU)
Tốc độ vũ trụ cấp 1 934 m/s
Phiên âm /ˈnɪəri.ɪd/ hoặc /ˈnɛri.ɪd/[lower-alpha 1]
Tính từ Nereidian, Nereidean
Độ nghiêng quỹ đạo
Viễn điểm quỹ đạo &0000009655000000.0000009655000 km (0.06454 AU)
Nhiệt độ ≈ 50 K trung bình (ước tính)
Chu kỳ quỹ đạo &0000000031115767.680000360.1362 d
Chu kỳ tự quay 0.48 ngày (11 giờ, 31 phút)[5]
Ngày phát hiện 1 tháng 5 năm 1949