Na-lạc_lục_pháp

Na-lạc lục pháp (zh. 那洛六法, bo. nāro chodrug ནཱ་རོ་ཆོས་དྲུག་, cũng được gọi là Na-lạc du-già tốc đạo hay "Sáu giáo pháp của Na-lạc-ba" (zh. 那洛巴, bo. nāropa), là một loạt giáo pháp Tây Tạng thuộc Kim cương thừa, xuất phát từ các vị Đại thành tựu (sa. mahāsiddha) do Đại sư Na-lạc-ba truyền dạy. Na-lạc-ba lại được Đế-la-ba (sa. tilopa) chân truyền. Na-lạc-ba truyền lại cho Mã-nhĩ-ba (bo. marpa མར་པ་), người đưa giáo pháp này qua Tây Tạng trong thế kỉ 11. Song song với Đại thủ ấn (sa. mahāmudrā), Na-lạc lục pháp là phương pháp thiền định quan trọng nhất của trường phái Ca-nhĩ-cư (bo. kagyupa བཀའ་བརྒྱུད་པ་).Sáu giáo pháp này gồm có:Các phép tu này có nhiều điểm giống với các phép được miêu tả trong Tử thư (bo. bardo thodol བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་). Người ta còn nhắc rằng Mật-lặc Nhật-ba (bo. milarepa མི་ལ་རས་པ་) là người rất giỏi phép sử dụng nội nhiệt.Na-lạc lục pháp này xuất phát từ nhiều Tantra khác nhau và được các vị Đạo sư khác nhau truyền lại. Theo một tác phẩm của Đế-la-ba (帝羅巴, bo. ti lo pa ཏི་ལོ་པ་) thì phép quán huyễn thân và cực quang là do Long Thụ (Long Thụ theo truyền thống các vị Đại thành tựu) khởi truyền. Phép nội nhiệt được xem là từ Chayapa (sa. caryapa), phép quán giấc mộng từ Lavapa (sa. lavapa), phép quán thân trung hữu và chuyển thức từ Pukasiddhi (sa. pukasiddhi) khởi phát.Hành giả chuyên trách tu tập sáu phép này dựa trên cách tận dụng thân xác vi tế của mình, sẽ đạt nhiều Thần thông (xem Tất-địa). Đó là cách đưa thân vào trong các tầng phát triển của tâm và theo truyền thuyết Tây Tạng, năng lượng trong thân được vận dụng dưới ba dạng như sau: luồng năng lượng (bo. lung རླུང་) tác động lên các bộ phận trong thân thể, đạo quản năng lượng (bo. tsa ཙ་) là các kênh dẫn năng lượng luân lưu và cuối cùng là tiềm năng lượng (bo. thig-le ཐིག་ལེ་, sa. bindu) là gốc chứa hệ thống năng lượng đó. Với các phép tu của Na-lạc lục pháp mà những năng lượng này được kích động, được dùng như phương tiện đạt giác ngộ. Mục đích của tất cả những phép tu đó là thống nhất tính Không (sa. śūnyatā) và các thụ tưởng của hành giả. Mật-lặc Nhật-ba có bài kệ "sáu hỉ lạc" sau đây về kinh nghiệm giác ngộ này: