Chiếc
Mitsubishi Ki-46 là một kiểu
máy bay trinh sát hai động cơ được
Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong
Thế Chiến II. Lục quân đặt tên nó là "Máy bay Trinh sát Chỉ huy Kiểu 100" (百式司令部偵察機); trong khi phe
Đồng Minh đặt tên mã là "Dinah". Chiếc máy bay này được sử dụng trước tiên trong Lục quân Nhật Bản tại
Mãn Châu và
Trung Hoa, nơi có bảy đơn vị được trang bị nó, và thỉnh thoảng cũng được
Hải quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong một số phi vụ trinh sát tại vùng duyên hải phía bắc
Australia và
Tân Guinea. Các xưởng của
Mitsubishi đã chế tạo tổng cộng 1.742 chiếc thuộc tất cả các phiên bản từ I đến IV trong khoảng thời gian giữa những năm 1941-1944.
Lục quân Nhật cũng sử dụng máy bay này trong những phi vụ như trên (bất hợp pháp) tại khu vực
Malaya (
Malaysia ngày nay) trong những tháng trước khi xảy ra
Chiến tranh Thái Bình Dương. Sau đó nó được sử dụng tại
Miến Điện,
Đông Dương và
Thái Lan cũng như trong các chiến dịch tại khu vực
Ấn Độ Dương.Trong giai đoạn 1944-45, trong những ngày cuối cùng của chiến tranh, nó được cải tiến thành kiểu máy bay tiêm kích đánh chặn tầm cao, trang bị hai pháo 20 mm trước mũi và một pháo 37 mm hướng ra phía trước và lên trên, giống như cách bố trí trên chiếc máy bay tiêm kích bay đêm
Schrage Musik của Không quân Đức, để chống lại những chiếc
B-29 Superfortress của
Không lực Lục quân Hoa Kỳ trên các đảo chính quốc Nhật Bản. Tuy nhiên, nó thiếu sự ổn định cần thiết để nhắm bắn pháo 37 mm, vỏ giáp yếu kém, và tốc độ lên cao chậm.Ki-46 được trang bị cho hai
Sentai (phi đoàn/liên đoàn) trọn vẹn, cũng như cho
Chutaicho (phi đội) độc lập của
Lục quân Nhật trong
Chiến tranh Thái Bình Dương.Trong và sau chiến tranh
Hoa Kỳ chiếm được một số máy bay dùng để đánh giá tính năng bay.