Linh_dương_Nyala
Linh_dương_Nyala

Linh_dương_Nyala

Linh dương Nyala (danh pháp hai phần: Tragelaphus angasii) là một loài linh dương thuộc họ Bovidae, bộ Artiodactyla. Loài này được Angas mô tả năm 1848.[3] Đây là loài bản địa nam châu Phi. Loài này được mô tả khoa học lần đầu vào năm 1849 bởi George French Angas. Thân dài 135–195 cm (53–77 in), và cân nặng 55–140 kg (121–309 lb). Bộ lông màu rỉ sắt hoặc nâu đỏ ở con cái và con chưa trưởng thành, nhưng có màut màu nâu sẫm hoặc màu xám đá phiến, thường nhuốm màu xanh biển ở con đực. Con cái và con đực trẻ có 10 hoặc nhiều sọc trắng trên hai bên. Chỉ con đực mới có sừng, sừng dài 60–83 cm và có mũi sừng màu vàng.Nyala chủ yếu là hoạt động vào buổi sáng sớm và cuối buổi chiều. Nó thường gặm lá cây ban ngày nếu nhiệt độ 20-30 độc C và trong đêm trong mùa mưa. Là động vật ăn cỏ, nyala ăn tán lá, trái cây và các loại cỏ, với nước sạch đầy đủ. Là một loài đột động vật nhút nhát, nó thích các hố nước chứ không phải là không gian mở. Loài nyala không có dấu hiệu chiếm lĩnh lãnh thổ riêng, và các khu vực lãnh thổ của các cá nhân có thể chồng lên nhau. Chúng là những sinh vật rất thận trọng. Các con đực già sống một mình, nhưng cũng có các nhóm cùng giới tính hoặc các gia đình hỗn hợp lên đến 10 cá thể. Những nơi sinh sống của chúng bao gồm các bụi cây trong rừng hoang mạc dày đặc và khô. Những kẻ săn mồi chính săn bắt nyala là sư tử, báo và chó hoang châu Phi, trong khi con khỉ đầu chó và các loài chim ăn thịt săn bắt các con nyala non. Thời gian giao phối vào thời kỳ đỉnh điểm trong suốt mùa xuân và mùa thu. Con đực và con cái trưởng thành tính dục lần lượt ở 18 và 11-12 tháng. Linh dương mẹ sinh con sau một thời gian thai bảy tháng.Phạm vi phân bố loài này gồm có Malawi, Mozambique, Nam Phi, SwazilandZimbabwe. Loài này đã được nhập nội vào BotswanaNamibia, và được du nhập lại vào Swaziland, nơi nó tuyệt chủng từ những năm 1950. Số lượng loài này ổn định và nó đã được liệt vào nhóm loài ít quan tâm bởi Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Các mối đe dọa chính đối với loài này là nạn săn bắn và mất nơi sống do khu định cư của con người.

Liên quan