HMS_Wrangler_(R48)
HMS_Wrangler_(R48)

HMS_Wrangler_(R48)

list error: <br /> list (help)
Radar Kiểu 272 chỉ định mục tiêu;
Radar Kiểu 291 cảnh báo không trung;
Radar Kiểu 285 điều khiển hỏa lực trên bệ Mk.III(W);
list error: <br /> list (help)
4 × pháo QF 4,7 in (120 mm) L/45 Mk.IX trên bệ CP Mk.XXII (4×1);
4 × pháo phòng không QF 2-pounder (40-mm) Mk.VIII "pom-pom" trên bệ Mk.VII (1×4); hay
2 × pháo phòng không Bofors 40 mm trên bệ "Hazemeyer" Mk.IV (1×2);
2 × pháo phòng không Oerlikon 20 mm Mk.V (1×2);
1 × pháo phòng không Bofors 40 mm Mk.III hay "Boffin" Mk.V;
1 × pháo phòng không QF 2-pounder Mk.XVI;
8 × ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm) Mk.IX (4x2);
list error: <br /> list (help)
Radar Kiểu 293Q chỉ định mục tiêu, (sau là Kiểu 993);
Radar Kiểu 277Q dò tìm mặt biển;
Radar Kiểu 974 dẫn đường;
Radar Kiểu 262 điều khiển hỏa lực trên bệ CRBF;
Radar Kiểu 1010 Cossor Mark 10 nhận diện bạn thù;
Sonar Kiểu 174 dò tìm;
Sonar Kiểu 162 chỉ định mục tiêu;
list error: <br /> list (help)
2 × pháo QF 4 inch Mark XIX (1×2);
2 × pháo phòng không Bofors 40 mm (1×2);
2 × súng cối Squid chống tàu ngầm, hoặc;
HMS Wrangler (R48) là một tàu khu trục lớp W được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sống sót qua cuộc xung đột, nó được cải biến thành một tàu frigate nhanh chống tàu ngầm Kiểu 15 vào năm 1953, xếp lại lớp với ký hiệu lườn F157, trước khi được bán cho Hải quân Nam Phi năm 1957 và tiếp tục phục vụ như là chiếc SAS Vrystaat cho đến năm 1976. Nó là chiếc tàu chiến thứ sáu của Hải quân Hoàng gia mang cái tên này.