Hệ thống nghị viện, hay còn gọi là
chế độ nghị viện, được phân biệt bởi phân nhánh hành pháp của chính phủ nơi phụ thuộc vào hỗ trợ trực tiếp hay gián tiếp của nghị viện, và thường được thể hiện thông qua cuộc
bỏ phiểu tín nhiệm. Hệ thống nghị viện thường có sự phân biệt rõ ràng giữa người
đứng đầu chính phủ và
nguyên thủ quốc gia. Người đứng đầu chính phủ là
thủ tướng, và nguyên thủ quốc gia thường là người được chỉ định chỉ có danh nghĩa hay được thừa kế có quyền rất giới hạn. Tuy nhiên, một số hệ thống nghị viện cũng có
tổng thống đứng đầu nhà nước được bầu ra có quyền hạn hạn chế để cân bằng hệ thống này (được gọi là
cộng hòa nghị viện). Theo một quy luật chung, chế độ
quân chủ lập hiến cũng có hệ thống nghị viện.Thuật ngữ "hệ thống nghị viện" không có nghĩa là một quốc gia nào đó được điều hành bởi
chính phủ liên hiệp gồm các đảng khác nhau. Sự sắp xếp
đa đảng như vậy thường là kết quả của
hệ thống bầu cử và được biết đến với tên "
đại diện tỷ lệ".Các quốc gia sử dụng luật bầu cử
thắng với đa số tương đối (first past the post) thường có chính phủ chỉ gồm một đảng. Tuy nhiên, hệ thống nghị viện ở
Âu châu đại lục lại dùng đại diện tỷ lệ, và có khuynh hướng cho ra kết quả bầu cử không có đảng đơn nào có đa số ghế.Chế độ nghị viện có thể cũng được chú ý trong việc quản lý ở
chính quyền địa phương. Ví dụ ở thành phố
Oslo, hội đồng hành pháp có một phần trong hệ thống nghị viện. Hệ thống ban
quản trị hội đồng của chính quyền địa phương ở các thành phố của
Mỹ có nhiều điểm tương đồng với hệ thống nghị viện.