Công_nghiệp_sáng_tạo

Công nghiệp sáng tạo (CNST) là tên gọi những ngành công nghiệp mới xuất hiện trong thế kỷ 20, tuy những ý tưởng ban đầu về lĩnh vực công nghiệp này bắt đầu từ khung thống kê dành cho các hoạt động văn hóa đã bắt đầu từ những năm 1986.Tại Anh, công nghiệp sáng tạo được định nghĩa bao gồm 13 lĩnh vực trong số đó có cả chợ thủ công mỹ nghệ truyền thống, âm nhạc, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, quảng cáokiến trúc. Theo định nghĩa như Hệ thống sản xuất ngành công nghiệp sáng tạo (Creative Industries Production system, CIPS) được tiếp thu bởi Singapore, Anh, NewzealandHồng Kông, quá trình đi từ một ‎‎ý tưởng đến tiêu dùng bao gồm toàn bộ các khâu hình thành, sản xuất, phân phốitiêu thụ. Theo đó, việc thương mại hóa các sản phẩm mang tính ý tưởng, có liên quan đến văn hóanghệ thuật là tiền đề cho sự hình thành của công nghiệp sáng tạo.Công nghiệp sáng tạo là khái niệm bao gồm trong kinh tế tri thức [1]. Trong thách thức của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, sáng tạo trở thành những phương tiện mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế và toàn cầu hóa. Kinh tế sáng tạo, khái niệm của công nghiệp sáng tạo, là kinh tế tri thức, nhưng khác với kinh tế tri thức, kinh tế sáng tạo có thể đo lường được và tính được doanh thu, là một bộ phận kết nối giữa văn hóathương mại. Theo một báo cáo của UNCTAD (2008), CNST toàn cầu đóng góp khoảng 3.4% vào nền thương mại quốc tế và đạt một tốc độ tăng trưởng khoảng 8.7% trong những năm 2000 – 2005.[1]Theo định nghĩa của UNESCO, công nghiệp sáng tạo bao gồm những sản phẩm mang tính sáng tạo thuộc lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật. Đó là hoạt động bắt nguồn từ sự sáng tạo, kỹ năngnăng khiếu của cá nhân, có tiềm năng tạo ra của cải, việc làm qua quá trình khai thác quyền sở hữu trí tuệ.