Con lắc theo định nghĩa chung nhất là một vật gắn vào một trục cố định mà nó có thể xoay (hay dao động) một cách tự do.
[1] Khi đưa con lắc dịch chuyển khỏi
vị trí cân bằng theo chiều ngang, nó sẽ chịu một lực phục hồi do tác dụng của
hấp dẫn đưa nó trở lại vị trí cân bằng. Khi được thả ra, lực phục hồi kết hợp với
trọng lượng của con lắc khiến cho nó
dao động xung quanh vị trí cân bằng. Thời gian để con lắc hoàn thiện một lần dao động tới lui gọi là
chu kỳ dao động. Chu kỳ dao động phụ thuộc vào độ dài của con lắc cũng như một phần vào
biên độ. Tuy nhiên, nếu như biên độ là nhỏ và con lắc không chịu lực cản hay ma sát nào thì chu kỳ dao động độc lập với biên độ con lắc dao động.Từ khi được khám phá và nghiên cứu bởi
Galileo Galilei vào năm 1602, chuyển động đều của con lắc đã được ứng dụng để đo
thời gian và là thiết bị đo thời gian chính xác nhất cho đến thập niên 1930.
[2] Đồng hồ quả lắc được
Christian Huygens phát minh vào năm 1658 đã trở thành thời gian kế tiêu chuẩn của thế giới, được sử dụng tại gia và văn phòng trong 270 năm và có sai số khoảng một giây mỗi năm trước khi nó được thay thế bởi các
đồng hồ thạch anh vào những năm 1930. Con lắc cũng được áp dụng vào các dụng cụ đo đạc khoa học như
gia tốc kế và
địa chấn kế. Trong lịch sử, chúng còn được sử dụng trong các
hấp dẫn kế để đo
gia tốc hấp dẫn trong khảo sát địa lý hay thậm chí để làm đơn vị chuẩn của độ dài.
[3]