Kasserine Chiến_dịch_Tunisia

Xem thêm về trận đèo Kasserine tại: Trận đèo Kasserine

Khởi đầu

Trong nửa đầu tháng Giêng, Anderson đã có những kết quả tổng hợp từ việc liên tục gây áp lực thông qua các cuộc tấn công giới hạn và trinh sát. Arnim đã làm tương tự như vậy và vào ngày 18 tháng 1, tung ra Unternehmen Eilbote I (Chiến dịch chuyển phát I). Các đơn vị của sư đoàn Panzer 10 và sư đoàn Bộ binh 334 tấn công từ Pont du Fahs để tạo thêm không gian phía trước Sư đoàn Superga của Ý và ngăn chặn một đồng minh kéo về phía đông tới bờ biển tại Enfidaville để cắt Rommel khỏi tuyến liên lạc. Cuộc tấn công về phía tây vào phía cánh phải của Quân đoàn V Anh ở Bou Arada chỉ đạt được thành tựu hạn chế nhưng ở phía nam, cuộc tấn công của ông vào các vị trí của Pháp xung quanh "bản lề" nối phía Tây và Đông Dorsals thành công, tiến 56 km (35 mi) về phía nam tới Ousseltia và 40 km (25 dặm) về phía tây nam đến Robaa. Những người lính được trang bị không đầy đủ đã kháng cự dữ dội nhưng bị tràn ngập và tương đương với bảy tiểu đoàn bộ binh bị cắt đứt trên các ngọn núi. Anderson phái Lữ đoàn 36 đến Robaa và yêu cầu Lloyd Fredendall gửi Lực lượng Chỉ huy Chiến đấu B từ Sư đoàn Thiết giáp số 1 đến Ousseltia để đặt dưới sự chỉ huy của Juin khi đến. Cuộc chiến khốc liệt kéo dài đến ngày 23 tháng 1 nhưng mặt trận đã ổn định.

Sự yếu kém của Đồng minh trong khả năng phối hợp đã khiến Eisenhower thay đổi cơ cấu chỉ huy và ngày 21 tháng 1, Anderson chịu trách nhiệm phối hợp toàn bộ mặt trận và ngày 24 tháng 1, trách nhiệm của ông được mở rộng bao gồm "việc sử dụng quân đội Mỹ ". Đêm đó, Juin chấp nhận lệnh của Anderson, được xác nhận bởi Giraud ngày hôm sau nhưng với lực lượng trải rộng ra trên 320 km (200 dặm) và thông tin liên lạc rất kém (Anderson phải lái xe trên 1.600 km (1.000 dặm) trong bốn ngày để nói chuyện với Chỉ huy quân đoàn) khiến việc thi hành lệnh khá khó khăn. Eisenhower bổ nhiệm một chỉ huy không quân, Chuẩn tướng Laurence S. Kuter, cho toàn bộ mặt trận vào ngày 21 tháng 1.

Erwin Rommel đã có kế hoạch cho các lực lượng rút lui qua Libya để tiến vào tuyến Mareth Line cũ do Pháp xây dựng. Các lực lượng Trục sẽ kiểm soát hai lối vào tự nhiên của Tunisia ở phía bắc và nam, và chỉ có những ngọn núi dễ bảo vệ nằm giữa họ. Vào tháng Giêng, những bộ phận của Tập đoàn quân Panzer Đức-Ý về bảo vệ Mareth được đổi tên thành Tập đoàn quân số 1 Ý (General Giovanni Messe), tách khỏi các đơn vị (bao gồm cả phần còn lại của Afrika Korps), đã phải đối mặt với Dorsale vè phía Tây. Ngày 23 tháng 1 năm 1943, Tập đoàn quân số VIII đã chiếm Tripoli, khi đó lúc lượng rút lui qua Libya đã lên đường đến vị trí của Mareth. Một phần của Quân đoàn II Hoa Kỳ đã vượt qua Tunisia qua các đèo núi Atlas từ Algeria, kiểm soát phía trong của tam giác được hình thành bởi các ngọn núi. Vị trí của họ đã tăng nguy cơ tấn công hướng về phía đông tới Sfax trên bờ biển, để cắt đứt Tập đoàn quân số 1 Ý tại Mareth khỏi lực lượng của Arnim về phía bắc xung quanh Tunis. Rommel không thể cho phép điều này và lập kế hoạch cho một cuộc tấn công.

Trận Sidi Bou Zid

Vào ngày 30 tháng 1 năm 1943,Sư đoàn Panzer 21 của Đức và ba sư đoàn Ý từ Tập đoàn quân Panzer 5 đã gặp các bộ phận của quân Pháp gần Faïd, đèo chính từ cánh phía đông của dãy núi trong vùng đồng bằng ven biển. Fredendall đã không đáp lại yêu cầu của Pháp để đưa quân tiếp viện xe tăng từ Sư đoàn Thiết giáp 1 và sau cuộc kháng cự tuyệt vọng, những người lính phòng ngự thiếu thốn của Pháp đã bị tràn ngập. Một số cuộc phản công đã được tổ chức, bao gồm cả một cuộc tấn công muộn màng của Lực lượng Chỉ huy B (CCB) của Sư đoàn Thiết giáp Hoa Kỳ 1, nhưng tất cả đều bị lực lượng của Arnim đánh bại và lần này họ đã tạo ra các vị trí phòng thủ mạnh. Sau ba ngày, lực lượng Đồng minh buộc phải rút lui vào vùng đồng bằng bên trong để tạo tuyến phòng ngự mới tại thành phố nhỏ Sbeitla.

Trong Chiến dịch Frühlingswind (gió xuân), Arnim đã ra lệnh cho bốn nhóm thiết giáp chiến đấu vào ngày 14 tháng 2 trong khu vực Sidi Bou Zid đựoc giữ bới trung đoàn 168 Bộ binh của Sư đoàn Bộ binh số 34 và Lực lượng chỉ huy A(CCA) thuộc sư đoàn thiết giáp 1. Cách bố trí của phía phòng thủ rất kém, các đơn vị bị phân tán khiến họ không thể hỗ trợ lẫn nhau. Đến ngày 15 tháng 2, CCA đã bị thiệt hại nặng bỏ lại các đơn vị bộ binh nằm trên những ngọn đồi. Lực lượng Chỉ huy C(CCC) được lệnh tấn công để giải tỏa Sidi Bou Zid nhưng đã bị đẩy lùi với những tổn thất nặng nề. Vào tối ngày 15 tháng 2, ba nhóm chiến đấu của Axis đã có thể hướng về Sbeitla, 32 km (20 dặm) về phía tây bắc. Gạt sang một bên những phần còn lại của CCA và CCC, các đoàn quân đã phải đối mặt với CCB ở ngay trước Sbeitla. Với sự trợ giúp của không quân, CCB đã giữ được suốt cả ngày. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của không quân không thể duy trì được lâu và quân bảo vệ Sbeitla bị buộc phải rút lui, thị trấn thất thủ vào giữa trưa ngày 17 tháng 2.

Ở phía nam, trong Chiến dịch Morgenluft (gió sáng),một bộ phận của Tập đoàn quân số 1 của Ý gồm các phần còn lại của Afrika Korps dưới quyền Karl Bülowius đã tiến về phía Gafsa vào lúc hoàng hôn vào ngày 15 tháng 2 để tìm thị trấn bị bỏ lại, một phần của việc rút lui nhằm rút ngắn Mặt trận Đồng Minh tạo điều kiện cho việc tổ chức lại liên quan đến việc rút quân đoàn XIX Pháp để trang bị lại. Quân đoàn II Hoa Kỳ rút lui về phía Dernaia-Kasserine-Gap-Sbiba với quân đoàn XIX trên cánh trái đòng nghĩ với việc bỏ phía Đông Dorsal cùng với họ. Vào chiều ngày 17 tháng 2, quân đội của Rommel chiếm Feriana và Thelepte (cách thành phố Kasserine khoảng 24 km (15 dặm) về phía tây nam của Kasserine). Sáng 18-2 sân bay Thelepte, căn cứ không quân chính trong khu vực phía Nam của Tập đoàn quân số 1 Anh, buộc phải di tản.

Trận đèo Kasserine

Sau khi thảo luận thêm, Bộ Tư lệnh Supremo đã đồng ý trao quyền chỉ huy hai Sư đoàn Panzer 10 và 21 vào ngày 19 tháng 2 cho Rommel nhưng lại yêu cầu ông tấn công qua Kasserine và Sbiba để đánh lên Thala và Le Kef nhằm đe dọa sườn của Tập đoàn quân số 1,kế hoạch này đã bị Đồng Minh dự đoán trước. Đề xuất ban đầu của Rommel là một cuộc tấn công giới hạn nhưng tập trung qua Kasserine để đối đầu với Quân đoàn II non kinh nghiệm tại Tébessa và cướp lấy nguồn cung cấp từ các cơ sở của Mỹ mà phía Trục đang rất cần. Mặc dù ông có Sư đoàn Panzer 10 và 21 được chuyển đến dưới quyền của ông, Rommel lo ngại rằng kế hoạch mới sẽ làm giảm sự tập trung lực lượng của mình và các bên cánh sẽ bị đe dọa.

Ngày 19 tháng 2 năm 1943, Rommel, hiện đang được chính thức chỉ huy Sư đoàn Panzer số 10 và 21, quân đoàn Afrika Korps cũng như các lực lượng của Tướng Messe trong việc bảo vệ Mareth (đổi tên là Tập đoàn quân số 1 Ý), phát động tấn công mà sau này sẽ trở thành Trận đèo Kasserine. Với hy vọng đánh bại những người lính thiếu kinh nghiệm trong một cuộc tấn công bất ngờ, ông đã tung thiêt giáp hạng nhẹ của Tiểu đoàn Trinh sát số 3 vào con đèo. Lực lượng Stark của Đại tá Alexander Stark, một lữ đoàn bao gồm các đơn vị Hoa Kỳ và Pháp, chịu trách nhiệm bảo vệ con đèo.Họ đã không có thời gian để tổ chức kĩ càng nhưng có thể chỉ đạo hỏa lực pháo của hạng nặng từ các cao nguyên bao quanh, khiến cho đơn vị cơ giới đi đầu của Afrika Korps phải dừng lại. Trước khi có thể tiếp tục, bộ binh cần phải được đưa lên cao để tìm cách loại bỏ mối đe dọa pháo binh. Nhóm chiến đấu dưới quyền Hans-Georg Hildebrand bao gồm các xe tăng từ Sư đoàn Panzer 21 đã tiến lên phía bắc từ Sbeitla về phía Sbiba Gap. Trước những đồi phía đông của Sbiba, họ bị chặn lại bởi Lữ đoàn vệ binh 1 và Đội Đặc Trách Chiến Thuật số 18 có lực lượng pháo mặt đất và pháo phòng không hỗ trợ mạnh mẽ và còn có hai trung đoàn bộ binh từ Sư đoàn Bộ Binh 34 gia nhập.

Vào sáng ngày 20 tháng 2, trận chiến giáp lá cà trong những ngọn đồi phía trên Kasserine tiếp tục trong khi Afrika Korps Kampfgruppe và một tiểu đoàn từ Sư đoàn Thiết giáp 131 Centauro và nhiều pháo binh hơn chuẩn bị cho một cuộc tấn công khác qua đèo, một khi Sư đoàn Panzer 10 gia nhập từ Sbeitla. Cuộc tấn công vào buổi sáng khá chậm chạp khi von Broich đợi các lực lượng từ sư đoàn panzer 10 của mình Rommel đã trực tiếp yêu cầu ông tấn công ngay vào chiều hôm đó.Sự áp đảo của phe Trục với không quân và pháo binh yểm hộ đã làm sụp đổ hệ thống phòng thủ của liên quân.

Sau khi vượt qua Đèo Kasserine vào chiều ngày 20 tháng 2, các đơn vị của Sư đoàn Centauro tiến về hướng tây về phía Tébessa, hầu như không gặp kháng cự. Theo sau họ là nhóm chiến đấu của von Broich từ Sư đoàn Panzer 10, chia ra ngay trên con đường tới Thala, nơi họ bị một nhóm vũ trang thuộc trung đoàn huấn luyện thuộc Lữ đoàn Thiết giáp 26 (Gore Force) làm chậm lại. Xe tăng của GF bị bắn cháy, Gore Force thiệt hại nặng nhưng đã mua thời gian cho lực lượng Nick Force, một lực lượng hỗn hợp từ Sư đoàn 6 Thiết giáp Anh, căn cứ xung quanh Lữ đoàn Thiết giáp số 26 với bộ binh và pháo binh (mà Anderson đã ra lệnh ngày hôm trước rời khỏi khu Kesra để Tăng cường phòng thủ Thala) chuẩn bị các vị trí phòng thủ xa hơn trên đường. Trong khi đó, Fredendall đã gửi CCB của Sư đoàn 1 Thiết giáp để chống lại mối đe dọa vào Tébessa.

Đến 1 giờ chiều ngày 21 tháng 2, nhóm von Broich đã đối đầu với Lữ đoàn Thiết giáp 26 trên Đường Thala và tiến lên chậm. Rommel đã trực tiếp chỉ huy cuộc tấn công và buộc họ phải rút vào 4 giờ chiều. Tuy nhiên, Lữ đoàn Thiết giáp 26 đã có thể rút lui một cách hợp lý để sau đó cuối cùng phòng thủ trước Thala. Cuộc chiến tại vị trí này bắt đầu lúc 7 giờ tối và tiếp tục ở các khu vực lân cận trong ba tiếng đồng hồ mà không bên nào có thể đạt được lợi thế quyết định. Nick Force đã hứng chịu những đòn tấn công dữ dội và không còn có thể giữ được ngày hôm sau. Tuy nhiên, vào đêm đó, thêm 48 khẩu pháo từ Sư đoàn bộ binh 9 Hoa Kỳ đã đến sau chuyến đi dài 1.300 km từ Ma-rốc trên những con đường nghèo nàn và trong thời tiết xấu. Vào sáng ngày 22 tháng 2, khi Broich chuẩn bị tấn công, mặt trận của ông bị một đòn pháo binh phủ đầu. Bất ngờ, Rommel nói với Broich để tập hợp lại và xây dựng một thế thế phòng thủ, vì vậy từ bỏ thế chủ động.

Nhóm chiến đấu thuộc Sư đoàn Panzer 21 ở Sbiba không đạt được thành tựu nào. Xa hơn về phía nam, Afrika Korps trên đường tới Tébessa đã bị chặn lại vào ngày 21 tháng 2 bởi thiết giáp và pháo binh của CCB nằm trên những dốc của Djebel Hamra. Một nỗ lực để tạt sườn họ trong đêm 21 tháng 2, trở thành một thất bại nặng nề. Một cuộc tấn công khác vào đầu ngày 23 tháng 2 lại bị đánh lại. Trong một cuộc gặp gỡ phẫn nộ vào ngày 22 tháng 2 với Kesselring, Rommel chỉ ra rằng phải đối mặt với sự phòng vệ vững chắc và tin tức rằng các đơn vị đi đầu của Tập đoàn quân số 8 Anh cuối cùng đã đến được Medenine, chỉ cách Mareth Line vài dặm, ông nên chấm dứt các cuộc tấn công và rút lui để hỗ trợ Bảo vệ Mareth, hy vọng rằng cuộc tấn công Kasserine đã gây ra thiệt hại đủ để ngăn chặn bất kỳ hành động tấn công từ phía tây. Kesselring đã rất quan tâm để tiếp tục tấn công nhưng cuối cùng đã đông ý với Rommel vào buổi tối và Bộ Tư lệnh Supremo chính thức chấm dứt chiến dịch. Các lực lượng Trục từ Kasserine đã tới Mareth Line vào ngày 25 tháng Hai.

Kết quả

Trận đánh là một thắng lợi to lớn về chiến thuật của phe Trục khi đánh thiệt hại nặng Quân đoàn II Hoa Kì và chiếm được lượng lớn hàng tiếp tế và bắt sống nhiều tù binh.Song, sự kháng cự bền bỉ của Đồng Minh, sự thiếu phối hợp (Arnim không những không tham gia đánh Tebessa mà còn giữ lại những đơn vị xe tăng Tiger quan trọng của Sư đoàn Thiết giáp 10) và khả năng tiếp vận kém của Ý đã khiến quân Trục không phát huy được thế chủ động biến đây thành một thất bại về chiến lược của họ.Không thể dứt điểm được hướng Tây,giờ đây quân Trục bị vây giữa hai Tập đoàn quân 1 và 8 của Anh và rơi vào thế bị động.

Thất bại này được xem là một trong những thảm bại lớn nhất của quân đội Hoa Kì trong lịch sử.Sau trận đánh,một cuộc tái tổ chức toàn cục đã được thưc hiện và trong những trận đánh về sau khả năng phối hợp của quân Đồng Minh đã hiệu quả hơn nhiều.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Tunisia http://collections.civilisations.ca/warclip/object... http://www.history.army.mil/books/wwii/bizerte/biz... http://www.history.army.mil/brochures/tunisia/tuni... http://historicalresources.org/2008/09/25/the-tuni... http://www.amazon.co.uk/Battle-Sidi-Nsir-Personal-... http://www.irishbrigade.co.uk http://www.greenhowards.org.uk/bill-cheall/cheall1... https://archive.org/details/gov.archives.arc.38951 https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Tunisi... https://www.thegazette.co.uk/London/issue/37779/pa...