Bộ Hải quân Hoa Kỳ (United States Department of the Navy) được thành lập bằng một đạo luật của
Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày
30 tháng 4 năm 1798 để cung ứng hỗ trợ kỹ thuật và hành chính cho
Hải quân Hoa Kỳ và lực lượng
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ dưới quyền lãnh đạo dân sự (và khi được lệnh điều hành của Quốc hội Hoa Kỳ hay
Tổng thống Hoa Kỳ thì lực lượng
Tuần duyên Hoa Kỳ cũng được đặc dưới quyền của Bộ Hải quân Hoa Kỳ). Bộ do
Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ lãnh đạo. Bộ trưởng được một
Thứ trưởng Hải quân Hoa Kỳ trợ tá. Bộ Hải quân từng là một cấp bộ trong
nội các cũng giống như
Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ gồm có
Lục quân Hoa Kỳ. Cả hai bộ này bị nhập lại dưới quyền của bộ mới thành lập có tên ban đầu là
Tổ chức Quân sự Quốc gia vào năm 1947. Tổ chức Quân sự Quốc gia sau đó được đổi tên thành
Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ vào năm 1949. Lúc đó Bộ Hải quân trở thành một bộ phận của Bộ Quốc phòng cho đến ngày nay.Bộ Hải quân gồm có các văn phòng hành chính, phần lớn nằm trong
Ngũ Giác Đài và tòa nhà phụ của Hải quân kế đó. Bộ có trách nhiệm tuyển mộ nhân sự quân sự và cả dân sự, tổ chức, tiếp liệu, trang bị, huấn luyện, huy động tăng giảm lực lượng Hải quân và Thủy quân Lục chiến và cơ sở vật chất, nhân lực của các lực lượng này. Bộ cũng trông coi việc đóng, tu bổ, sửa chữa các tàu thuyền, phi cơ, trang bị và các cơ sở vật chất.Bộ gồm có hai trong số
7 lực lượng đồng phục của Hoa Kỳ là
Hải quân Hoa Kỳ và
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.Sĩ quan quân sự cao cấp nhất trong bộ là
Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ và
Tham mưu trưởng Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Hai người này là những cố vấn Hải quân chính của
Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ và
Tổng thống Hoa Kỳ. Hai người này điều hành hai bộ phận riêng của mình trong bộ và phục vụ với vai trò là thành viên trong
Bộ Tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ (Joint Chiefs of Staff).