Bác ngữ học (
tiếng Anh: philology),
[1][2][3] có khi còn được gọi là
văn hiến học (文獻學),
ngữ văn học (語文學), hoặc
văn tự học (文字學) theo cách gọi ở một số nước
Đông Á, là ngành nghiên cứu các
ngôn ngữ và
văn thư cổ. Bác ngữ học trong các ngôn ngữ châu Âu có gốc từ
tiếng Hy Lạp philo-logia và mang nghĩa "yêu chữ nghĩa". Trong
tiếng Việt, văn hiến có nghĩa là những "tài liệu, văn bản tương quan đến lịch sử và văn minh của một nước".[
cần dẫn nguồn]Theo nghĩa rộng thì bác ngữ học là việc nghiên cứu một ngôn ngữ cùng với văn hiến và bối cảnh
lịch sử cũng như
văn hoá - những điều không thể thiếu cho việc thông hiểu các tác phẩm văn chương và những văn bản văn hoá quan trọng khác. Như vậy thì bác ngữ học bao gồm việc nghiên cứu văn phạm, tu từ, lịch sử, diễn giảng ý của tác giả và những truyền thống phê phán tương quan với một ngôn ngữ được đề ra. Cách định nghĩa rộng như trên ngày càng hiếm hoi và bây giờ, khi nhắc đến bác ngữ học, người ta thường xem nó như việc nghiên cứu văn bản từ quan điểm ngôn ngữ lịch sử.[
cần dẫn nguồn]Theo nghĩa trong ngôn ngữ học lịch sử thì bác ngữ học là một trong những cách tiếp cận ngôn ngữ nhân loại trên cơ sở khoa học đầu tiên, nhưng đã nhượng bộ cho những nhánh
ngôn ngữ học hiện đại đầu thế kỷ 20 vì chịu ảnh hưởng của
Ferdinand de Saussure. Tại
Hoa Kỳ, Tạp chí Bác ngữ học Hoa Kỳ (American Journal of Philology) được
Basil Lanneau Gildersleeve, một giáo sư ngành cổ văn
châu Âu ở
Viện Đại học Johns Hopkins lập ra vào năm
1880.