lãnh thổ thu thuếthuộc địaCác thuật ngữ
Đế quốc Na Uy,
[1] Vương quốc Kế thừa Na Uy (
Tiếng Bắc Âu cổ: Norégveldi,
Bokmål: Norgesveldet,
Nynorsk: Noregsveldet) và
Vương quốc Na Uy ám chỉ
Vương quốc Na Uy trong đỉnh cao quyền lực vào thế kỷ XIII sau thời kỳ dài
nội chiến trước năm 1240. Vương quốc là sự kết hợp lỏng lẻo bao gồm lãnh thổ Na Uy hiện đại, lãnh thổ của Thụy Điển hiện đại
Jämtland,
Herjedalen,
Ranrike,
Idre và
Särna, cũng như các vùng lãnh thổ do các chiến binh Na Uy định cư trong nhiều thế kỷ trước khi sáp nhập hoặc thống nhất vào vương quốc với 'lãnh thổ thu thuế'. Ở phía Bắc, Na Uy cũng có biên giới với các vùng lãnh thổ thu thuế rộng lớn trên đất liền. Na Uy, bắt đầu mở rộng từ nền tảng Vương quốc năm 872, đạt thời kỳ đỉnh cao trong giai đoạn 1240 và 1319.Cùng với người
Đan Mạch gốc Na Uy đã định cư tại
quần đảo Anh và kiểm soát
biển Ireland xuyên qua các
thành bang của
Viking. Dưới sự lãnh đạo của
Rollo, Đan Mạch và Na Uy đã
vây chiếm Pari và thành lập
Công quốc Normandy, và dưới lãnh đạo của vua Đan Mạch,
Canute Đại đế, đã xâm chiếm các vùng đất thuộc nước Anh hiện tại. Tuy nhiên, Na Uy muốn quan tâm tới đối ngoại và văn hóa trí tuệ sau khi
Saint Olav qua đời. Cái chết của thánh bảo trợ Na Uy đánh dấu ngày thành phố Trondheim hiện đại trở thành địa điểm hành hương quan trọng nhất ở Bắc Âu. Trong năm 1042–1047 vua Na Uy
Magnus tốt lành cũng
cai trị Đan Mạch, trước khi
Sweyn II kế vị.Vào thời đỉnh cao mở rộng Na Uy trước
nội chiến (1130–1240),
Sigurd I đã lãnh đạo cuộc
thập tự chinh Na Uy (1107–1110) để giải phóng các vùng chiếm đóng bởi Hồi giáo tại châu Âu. Bao gồm cả
Lisbon, trước khi Sigurd và lực lượng Na Uy của ông hướng về phía Trung Đông để cứu viện cho
Baldwin I để thành lập
Vương quốc Jerusalem. Vương quốc Na Uy là nước châu Âu thứ hai sau Anh thực thi một bộ luật thống nhất áp dụng cho cả nước, được gọi là Landslov (1274). Một sự kiện đáng chú ý của Vương quốc là câu chuyện chắc chắn rằng
nhà thám hiểm Leif Erikson, đã phát kiến ra
châu Mỹ gần 500 năm trước khi
Columbus thực hiện.Quyền lực thế tục mãnh mẽ đã kết thúc dưới triều vua
Haakon Haakonsson trị vì năm 1263. Một yếu tố quan trọng trong giai đoạn này là uy quyền tối cao của giáo hội
Nidaros từ năm 1152. Không có nguồn đáng tin cậy cho việc Jämtland được đặt dưới sự Tổng giám mục của Uppsala. Uppsala được thành lập sau đó, và là giáo phận thứ ba ở Scandinavia sau Lund và Nidaros. Nhà thờ tham gia vào một quá trình chính trị trước và trong
liên minh Kalmar Thụy Điển nhằm mục đích thiết lập một vai trò Thụy Điển ở Jämtland. Khu vực này đã là một vùng đất liền có quan hệ với vương quốc Thụy Điển, và có lẽ là trong một số liên minh với
Trøndelag, giống như với
Hålogaland.Một vương quốc thống nhất bởi vua
Harald I Fairhair trong thế kỷ IX. Ông nỗ lực thống nhất các vương quốc nhỏ của Na Uy, kết quả chính quyền trung ương Na Uy lần đầu tiên được thành lập. Đất nước này sớm bị chia cắt, và lại được thống nhất thành một thực thể vào nửa đầu thế kỷ thứ XI. Na Uy đã là một chế độ quân chủ kể từ Fairhair, cho nhiều thế kỷ sau đó.