Đế quốc Anh (
tiếng Anh: British Empire) bao gồm các
quốc gia tự trị, các
thuộc địa, các
lãnh thổ bảo hộ, các
lãnh thổ ủy thác và các
lãnh thổ khác do
Anh cai trị và quản lý. Đế quốc Anh khởi nguồn với các
thuộc địa và
trạm mậu dịch hải ngoại do
Anh thiết lập từ cuối
thế kỷ XVI đến đầu
thế kỷ XVIII. Vào giai đoạn đỉnh cao của nó, đây là
đế quốc hùng mạnh nhất trong lịch sử và là
thế lực đứng đầu toàn cầu trong hơn một thế kỷ.
[1] Đến năm
1913, Đế quốc Anh cai trị khoảng 412,2 triệu người, chiếm 23% dân số thế giới lúc đó
[2] và bao phủ diện tích hơn 35.500.000 km², gần một phần tư tổng diện tích toàn cầu.
[3][4] Do vậy, những di sản về
văn hóa,
ngôn ngữ,
luật pháp của Đế quốc Anh được truyền bá rộng rãi. Vào thời điểm nó đạt tới đỉnh cao của quyền lực, Đế quốc Anh thường được ví với câu nói "
đế quốc mặt trời không bao giờ lặn" bởi vì sự mở rộng cương thổ ra toàn địa cầu đồng nghĩa với việc mặt trời luôn chiếu sáng trên ít nhất một trong những vùng lãnh thổ của nó.Trong suốt
Thời đại Khám phá vào
thế kỷ XV và XVI,
Tây Ban Nha và
Bồ Đào Nha là hai quốc gia châu Âu đi tiên phong trong phong trào thám hiểm thế giới và trong quá trình đó họ đã thiết lập các đế quốc hải ngoại lớn. Đố kỵ với sự thịnh vượng vô cùng lớn mà hai đế quốc thực dân này giành được, các nước Anh,
Pháp và
Hà Lan bắt đầu thiết lập các thuộc địa và các mạng lưới mậu dịch của họ tại
châu Mỹ và
châu Á.
[5] Một loạt cuộc chiến với Pháp và Hà Lan trong
thế kỷ XVII và XVIII đã giúp Anh trở thành một cường quốc chi phối thống trị tại
Bắc Mỹ và
Ấn Độ. Nhưng đồng thời, uy thế của nước Anh (và cả Pháp
[6]) bị hạn chế tại châu Âu sau năm
1763, trước sự phát triển lớn mạnh của các
cường quốc phía Đông như
Phổ,
Áo và
Nga.
[7][8]Sự kiện
Mười ba thuộc địa tại Bắc Mỹ giành được độc lập vào năm
1783 sau cuộc
Chiến tranh Cách mạng Mỹ khiến cho nước Anh mất đi một số thuộc địa lâu đời nhất và đông dân nhất của mình. Ngay sau đó nước Anh nhanh chóng chuyển sự quan tâm sang
châu Phi, châu Á và
Thái Bình Dương. Sau
thất bại của nước
Pháp trong cuộc
chiến tranh Cách mạng Pháp và
chiến tranh Napoléon (1792 – 1815), nước Anh tận hưởng một thế kỷ thống trị hầu như không có đối thủ, và mở rộng phạm vi trên khắp toàn cầu.
[9] Địa vị thống trị của Anh sau này được ca ngợi như là
Pax Britannica (Thái bình Anh Quốc), một giai đoạn mà châu Âu và thế giới tương đối thái bình (1815 – 1914), đây là thời điểm mà nước Anh nắm quyền
bá chủ toàn cầu và trở thành người canh giữ cho hoà bình thế giới.
[10][11][12][13] Vào đầu thể kỷ 19, cuộc
Cách mạng công nghiệp bắt đẩu biến đổi nước Anh; tại thời điểm diễn ra cuộc "
Đại Triển Lãm" vào năm 1851, nước Anh được ca ngợi như là "công xưởng của thế giới".
[14] Đế quốc Anh còn bành trướng đến Ấn Độ, phần lớn Châu Phi và nhiều khu vực khác trên thế giới. Cùng với sự kiểm soát chính thức của nước Anh đối với các thuộc địa riêng của mình, nó còn thống trị gần như toàn bộ nền thương mại của thế giới đồng nghĩa với việc là nó kiểm soát nền kinh tế của nhiều khu vực khác như
châu Á và
Mỹ Latinh.
[15][16]Tại nước
Anh, những quan điểm chính trị đã thay đổi theo hướng ủng hộ chính sách tự do thương mại cùng chính sách tự do và phổ cập hoá đặc quyền bầu cử. Vào thế kỷ XIX, dân số của nước Anh đã gia tăng một cách mạnh mẽ, cùng với đó quá trình đô thị hoá nhanh chóng mà gây nên những căng thẳng nghiêm trọng về cả kinh tế cũng như xã hội.
[17] Để tìm kiếm các thị trường và các nguồn tài nguyên mới,
Đảng Bảo thủ dưới thời
Benjamin Disraeli đã khởi động một kỷ nguyên mới của chủ nghĩa bành trướng đế quốc tại
Ai Cập,
Nam Phi và nhiều nơi khác. Nhiều thuộc địa như
Canada,
Úc và
New Zealand được trao quyền tự trị, một vài trong số đó được tái phân loại là quốc gia tự trị.
[18]Đến đầu
thế kỷ XX, sự phát triển lớn mạnh của
Đức và
Hoa Kỳ làm xói mòi phần nào vị thế dẫn đầu về kinh tế của nước Anh. Chính sách đối ngoại của Anh quốc tập trung vào mối quan hệ hợp tác chặt chẽ và hữu nghị với Hoa Kỳ, nhưng những căng thẳng về vấn đề ngoại giao và quân sự khiến quan hệ với nước Đức ngày càng trở nên xấu đi và là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Trong thời kỳ diễn ra cuộc
chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Anh đã phải dựa nhiều vào đế quốc của mình về mặt nhân sự cũng như lương thực. Cuộc chiến này đã tạo ra một gánh nặng to lớn cả về mặt quân sự, tài chính và nguồn nhân lực cho nước Anh. Mặc dù sau cuộc chiến này, cương thổ của Đế quốc Anh đã được mở rộng lên tới cực điểm, bản thân nó đã không còn giữ được vị thế như là một cường quốc vô song về quân sự và công nghiệp được nữa. Trong
Chiến tranh thế giới lần hai, các thuộc địa của Anh tại
Đông Nam Á đã bị
Nhật Bản chiếm đóng, điều này đã làm cho uy tín của đế quốc Anh bị suy giảm nghiêm trọng và đẩy nhanh quá trình sụp đổ của đế quốc này. Sau chiến tranh, Anh phải trao quyền độc lập cho thuộc địa đông dân và giá trị nhất là
Ấn Độ. Trong những năm còn lại của thế kỷ XX, phần lớn những thuộc địa của Đế quốc Anh giành được độc lập như một phần của
phong trào phi thuộc địa hóa từ các cường quốc châu Âu, kết thúc với việc chuyển giao
Hồng Kông cho
Trung Quốc vào năm 1997.
[19][20][21][22] 14 lãnh thổ ở hải ngoại hiện vẫn thuộc chủ quyền của Anh.Sau độc lập, nhiều cựu thuộc địa của Anh gia nhập
Thịnh vượng chung các Quốc gia, một hiệp hội tự do của các quốc gia độc lập. 16 quốc gia có chung một
nguyên thủ, Nữ vương
Elizabeth II, đó là
Vương quốc Khối thịnh vượng chung.