Đô thị Việt Nam là những
đô thị bao gồm
thành phố,
thị xã,
thị trấn được các cơ quan nhà nước ở
Việt Nam có thẩm quyền ra quyết định công nhận. Mặc dù
huyện và
xã ở Việt Nam là cấp hành chính tại khu vực
nông thôn nhưng trong những trường hợp đặc biệt, nếu đủ điều kiện về quy mô và tính chất
đô thị hóa thì huyện có thể được công nhận là đô thị, như
Thủ tướng quyết định công nhận
huyện đảo Phú Quốc là đô thị loại II
[1],
Bộ Xây dựng quyết định công nhận khu vực thị trấn
Tĩnh Gia mở rộng thuộc huyện
Tĩnh Gia (tỉnh
Thanh Hóa) là đô thị loại III (hiện nay toàn bộ huyện Tĩnh Gia là đô thị loại IV), huyện
Tịnh Biên (
An Giang) là đô thị loại IV. Một số xã ở Việt Nam là các xã
huyện lỵ chuẩn bị được nâng cấp lên
thị trấn cũng có thể được công nhận là đô thị loại V bởi chính quyền cấp tỉnh. Các đô thị ở Việt Nam được chia thành 6 loại, bao gồm: Đô thị loại đặc biệt và các đô thị từ loại I đến loại V. Các đô thị loại đặc biệt, loại I và loại II phải do Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công nhận; các đô thị loại III và loại IV do Bộ Xây dựng ra quyết định công nhận; đô thị loại V do Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh công nhận.Đến tháng 10 năm 2018, tổng số đô thị cả nước là 819 đô thị (tăng thêm 6 đô thị so với cuối năm 2017), bao gồm 2 đô thị loại đặc biệt là
Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh, 19 đô thị loại I, 23 đô thị loại II, 45 đô thị loại III, 84 đô thị loại IV, 646 đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hóa ước đạt 38,4%
[2].Đến ngày 27 tháng 5 năm 2019, cả nước có 833 đô thị, bao gồm 2 đô thị loại đặc biệt là
Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh, 20 đô thị loại I, 29 đô thị loại II, 45 đô thị loại III, 85 đô thị loại IV và 652 đô thị loại V, tỉ lệ đô thị hóa đạt 38,5%
[3].Đến ngày 22 tháng 1 năm 2020, cả nước có 2 đô thị loại đặc biệt là
Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh, 21 đô thị loại I, 30 đô thị loại II, 45 đô thị loại III và 85 đô thị loại IV.