Ôzôn (O3) là một dạng
thù hình của ôxy, trong
phân tử của nó chứa ba
nguyên tử ôxy thay vì hai như thông thường.Trong điều kiện
nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn ôzôn là một
chất khí có màu xanh nhạt. Ôzôn hóa lỏng màu xanh thẫm ở -112 °C, và hóa rắn có màu xanh thẫm ở -193 °C. Ôzôn có tính
ôxy hóa mạnh hơn ôxy, do nó không bền, dễ dàng bị
phân hủy thành ôxy phân tử và ôxy nguyên tử. Ví dụ:O3 dễ dàng
ôxy hóa iodua đến
iốt tự do:Giấy tẩm dung dịch
kali iodua và
hồ tinh bột (giấy iốt tinh bột) chuyển ngay thành màu xanh khi có mặt ôzôn trong
không khí, nhưng nó kém bền hơn ôxy, dễ bị phân hủy thành ôxy thường theo phản ứng:Ôzôn là một
chất độc có khả năng
ăn mòn và là một
chất gây ô nhiễm chung. Nó có mùi hăng mạnh. Nó tồn tại với một tỷ lệ nhỏ trong bầu
khí quyển Trái Đất. Nó có thể được tạo thành từ O2 do phóng tĩnh điện,
tia cực tím, ví dụ như trong các
tia chớp, cũng như bởi tác động của
bức xạ điện từ trường cao
năng lượng. Ôzôn được điều chế trong máy ôzôn khi phóng điện êm qua ôxi hay qua không khí khô, tinh khiết. Trong
thiên nhiên, ôzôn được tạo thành khi có sự phóng điện trong khí quyển (sấm, sét). [
cần dẫn nguồn]Một số thiết bị điện có thể sản sinh ra ôzôn mà con người có thể ngửi thấy dễ dàng. Điều này đặc biệt đúng với các thiết bị sử dụng
điện cao áp, như
ti vi và máy
phôtôcopy. Các
động cơ điện sử dụng
chổi quét cũng có thể sản sinh ôzôn do sự
đánh lửa lặp lại bên trong khối. Các động cơ lớn, ví dụ những chiếc được sử dụng cho
máy nâng hay máy bơm
thủy lực, sản sinh nhiều ôzôn hơn các động cơ nhỏ.Mật độ tập trung cao nhất của ôzôn trong khí quyển nằm ở
tầng bình lưu(khoảng 20 đến 50 km tính từ mặt đất), trong khu vực được biết đến như là
tầng ôzôn. Tại đây, nó lọc phần lớn các
tia cực tím từ
Mặt Trời, là tia có thể gây hại cho phần lớn các loại hình
sinh vật trên
Trái Đất. Phương pháp tiêu chuẩn để đo lượng ôzôn trong khí quyển là sử dụng
đơn vị Dobson (DU). Ôzôn sử dụng trong công nghiệp được đo bằng
ppm (ví dụ các giới hạn phơi nắng của
OSHA), và phần trăm theo
khối lượng hay
trọng lượng.Ôzôn do
Christian Friedrich Schonbein phát hiện năm
1840.