Ôxy (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp oxygène /ɔksiʒɛn/),
[2] còn được viết là
ô-xy,
[2] ô-xi,
[2]) là
nguyên tố hóa học có ký hiệu là O thuộc
nhóm VI A và
số hiệu nguyên tử bằng 8 trong
bảng tuần hoàn các nguyên tố,
nguyên tử khối bằng 16. Ôxy là nguyên tố phi kim hoạt động rất mạnh. Nó có thể tạo thành hợp chất
oxit với hầu hết các nguyên tố khác
[3]. Ở điều kiện
nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn hai nguyên tử ôxy kết hợp với nhau tạo thành phân tử ôxy không màu, không mùi, không vị có công thức O2. Khí ôxy hóa lỏng ở nhiệt độ -183oC, màu xanh nhạt. Ôxy
phân tử (O2, thường được gọi là ôxy tự do) trên
Trái Đất là không ổn định về mặt
nhiệt động lực học. Sự xuất hiện trong thời kỳ đầu tiên của nó trên Trái Đất là do các hoạt động
quang hợp của
vi khuẩn kỵ khí (vi khuẩn cổ và vi khuẩn). Sự phổ biến của nó từ sau đó đến ngày nay là do hoạt động quang hợp của cây xanh. Ôxy là nguyên tố phổ biến xếp hàng thứ 3 trong
vũ trụ theo khối lượng sau
hydro và
heli[4] và là nguyên tố phổ biến nhất theo khối lượng trong
vỏ Trái Đất.
[5] Khí ôxy chiếm 20,9% về thể tích trong
không khí.
[6] Ôxy là nguyên tố hóa học phổ biến nhất (Chiếm 49,4% khối lượng vỏ Trái Đất.Khí ôxy thường được gọi là dưỡng khí, vì nó duy trì sự sống của cơ thể con người.Tất cả các nhóm phân tử cấu trúc chính trong các cơ thể sống như các
protein,
cacbohydrat, và
mỡ chứa ôxy, cũng như trong các
hợp chất vô cơ quan trọng cấu tạo tạo nên các vỏ sò, răng và xương. Ôxy ở dạng O2 được tạo ra từ nước bởi
vi khuẩn lam,
tảo và thực vật thông qua quá trình
quang hợp và được sử dụng trong quá trình
hô hấp của các cơ thể sống bậc cao. Ôxy là chất độc đối với
các sinh vật kỵ khí bắt buộc, là các sinh vật thống trị trong
thời buổi đầu trên Trái Đất cho đến khi O2 bắt đầu tích tụ trong khí quyển cách đây 2,5 tỷ năm.
[7] Một dạng khác (
thù hình) của ôxy là
ôzôn (O3) tích tụ tạo thành
lớp ôzon, khí này giúp bảo vệ sinh quyển khỏi
tia tử ngoại, nhưng nó sẽ là chất ô nhiễm nếu nó nằm gần mặt đất ở dạng
sương mù. Thậm chí ở
quỹ đạo Trái Đất tầm thấp, nguyên tử ôxy cũng tồn tại và làm mòn các tàu không gian.
[8]Ôxy được
Carl Wilhelm Scheele phát hiện ở
Uppsala năm 1773 hoặc sớm hơn và
Joseph Priestley ở
Wiltshire năm 1774 độc lập nhau, nhưng Priestley thường được cho là phát hiện ra trước bởi vi ấn phẩm của ông được xuất bản trước. Tên gọi ôxy (oxygen) được
Antoine Lavoisier đặt năm 1777,
[9] các thí nghiệm của ông với ôxy đã giúp loại trừ
thuyết phlogiston về
sự cháy và
ăn mòn phổ biến vào thời đó. Ôxy được sản xuất trong công nghiệp bằng cách
chưng cất phân đoạn không khí lỏng, sử dụng
zeolit để loại bỏ
carbon dioxit và
nitơ ra khỏi không khí,
điện phân nước và các cách khác. Trong phòng thí nghiệm, người ta điều chế oxy bằng cách nhiệt phân một số chất giàu oxy như KMnO4, KClO3. Ôxy được sử dụng trong sản xuất công nghiệp (thép, nhựa và dệt); đốt nhiên liệu (
nhiên liệu tên lửa); và hô hấp (hỗ trợ sự sống của con người trên tàu không gian, hay khi lặn dưới biển).