Ái_Tân_Giác_La

Ái Tân Giác La (tiếng Mãn: ᠠᡳᠰᡳᠨ ᡤᡳᠣᡵᠣ, phiên âm: Aisin Gioro; giản thể: 爱新觉罗; phồn thể: 愛新覺羅; bính âm: àixīn juéluó) là họ của các hoàng đế nhà Thanh và của các thành viên hoàng tộc trực hệ. Dòng họ Ái Tân Giác La đã cai trị Trung Quốc cho đến khi Cách mạng Tân Hợi thành công vào năm 1912 và thành lập một chính quyền cộng hòa thay thế cho triều đình nhà Thanh. Từ Ái Tân (aisin) có nghĩa là vàng trong tiếng Mãn (lý giải họ Kim được một số hậu duệ nhà Thanh sử dụng), và từ Giác La (gioro) là tên của một địa danh mà nay là Y Lan thuộc Hắc Long Giang. Theo phong tục Mãn Châu, các dòng họ được nhận biết đầu tiên là bởi Hala (哈拉, cáp lạp), tức là tên họ tộc hay bộ tộc của họ, và sau đó là Mukūn (穆昆, mục côn), một sự phân loại mang đặc trưng của các gia đình, dòng tộc. Trong trường hợp của Ái Tân Giác La, Ái Tân là Mukūn, và Gioro là Hala. Các dòng họ khác của bộ tộc Giác La bao gồm Y Nhĩ Căn Giác La (伊尔根觉罗, Irgen Gioro), Thư Thư Giác La (舒舒觉罗, Susu Gioro) và Tây Lâm Giác La (西林觉罗, Sirin Gioro) và một số dòng họ khác.Vào thời nhà Kim (1115–1234), người Nữ Chân, tổ tiên của người Mãn đã được gọi là aisin gurun. Trong những năm đầu dưới triều nhà Thanh, dòng họ này được gọi là () amaga aisin gurun,. Từ khi nhà Thanh sụp đổ, một số thành viên của dòng họ đã chuyển họ của mình sang Kim (tiếng Trung: 金). Đáng chú ý, em trai của hoàng đế Phổ Nghi đã chuyển họ tên của mình từ Ái Tân Giác La Phổ Nhậm (愛新覺羅溥任, phiên âm Mãn: Aisin-Gioro Puren) thành Kim Hữu Chi (金友之) và các con của ông cũng mang họ Kim.

Ái_Tân_Giác_La

Phiên âmQuan thoại- Bính âm Hán ngữ
Phiên âm
Quan thoại
- Bính âm Hán ngữàixīn juéluó
- Bính âm Hán ngữ àixīn juéluó
Tiếng Mãn
Giản thể 爱新觉罗
Phồn thể 愛新覺羅