Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II của
Phổ và
Đức, (
27 tháng 1 năm
1859 –
4 tháng 6 năm
1941) là vị
Hoàng đế (
Kaiser) cuối cùng của
Đế quốc Đức, đồng thời cũng là vị
Quốc vương cuối cùng của Vương quốc Phổ, trị vì từ năm
1888 cho đến năm
1918. Ông là một trong những nhân vật chủ chốt trong
lịch sử châu Âu vào
thế kỷ 20, và những chính sách của ông đóng vai trò quyết định đối với sự bùng nổ của cuộc
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
[1] Thuở thiếu thời, ông lâm vào sự mâu thuẫn gay gắt đối với song thân của ông, và đặc biệt là mẹ của ông -
Công chúa Victoria, con gái cả của Nữ hoàng
Victoria nước Anh.
[2] Ông lên nối ngôi lúc đã gần 30 tuổi và hai năm sau đó ông sa thải
Thủ tướng Otto von Bismarck do bất đồng với chính sách
ngoại giao khôn khéo của Bismarck.
[2] Wilhelm II thực hiện chính sách cô lập nước Đức, tạo điều kiện cho
Nga liên minh với
Pháp vào năm
1894.
[3] Ông là người có
chủ nghĩa quân phiệt và
chủ nghĩa dân tộc cháy bỏng cùng với mong muốn xây dựng lực lượng
hải quân mạnh nhằm đưa nước Đức trở thành
cường quốc hàng đầu
thế giới.
[4]Wilhelm II là một trong những danh nhân lịch sử có sức hút lớn nhất đối vơi hậu thế.
[5] Là người có tính cách mâu thuẫn, ông mong muốn trở thành một vị vua - chiến binh lỗi lạc nhưng lại yếu ớt. Thừa hưởng Đế quốc Đức hùng mạnh, ông quyết tâm mở mang nền
văn hóa,
nghệ thuật, kịch nghệ,
nhạc kịch và
kiến trúc, với không ít thành công. Chính sách này khiến ông tự coi mình là vị "Hoàng đế hiếu hòa" (Friedenskaiser). Tuy không thích người
Do Thái nhưng vị Hoàng đế khoan dung một nhóm doanh nghiệp Do Thái bởi lẽ ông nhận thấy tầm quan trọng của họ.
[6] Với tính khí khác thường, ông thường nói thế này nhưng lại làm thế khác.
[7] Ông cũng khuếch trương xây dựng lực lượng Hải quân Đức, và cuộc chạy đua hải quân giữa Đế quốc Đức và
Đế quốc Anh chính là một nhân tố quan trọng dẫn đến quan hệ ngoại giao tồi tệ giữa chính phủ 2 nước.
[8] Cho đến năm
1914, nước Đức đã có nền
kinh tế vượt trội so với Anh, và lớn mạnh hơn bất kỳ một
liệt cường nào khác - một thành tựu lẫy lừng của triều đại Wilhelm II. Trong khi ấy chính sách cô lập nước Đức của ông gặp một hậu quả là nước Anh liên minh với Nga và Pháp, mặc dù
Đế quốc Áo-Hung ủng hộ Đức.
[6] Wilhelm II cũng thiết lập liên minh với
Đế quốc Ottoman của người
Thổ Nhĩ Kỳ.
[9]Dù có người tố cáo ông là kẻ gây ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực chất ông đã không ít lần ngăn cản sự bùng nổ và tiếp diễn của cuộc chiến này kể từ những mầm mống của nó, và cả lúc nó đang tiếp diễn.
[8] Trong
chiến tranh, vai trò Tổng tư lệnh tối cao của ông chỉ còn là danh nghĩa, bị các tướng lĩnh Đức chi phối.
[10] Do sự phối hợp kém của đồng minh và những sai lầm về chiến lược quân sự của mình, các chiến dịch của Đức nhằm đánh nhanh, thắng nhanh đều phá sản. Năm
1918, quân Anh, Pháp, Mỹ phản công trên khắp mặt trận, đồng thời
cách mạng nổ ra chống lại chế độ Wilhelm.
[11][12] Wilhelm buộc phải thoái vị vào năm
1918 và sang
Hà Lan tị nạn. Kể từ năm
1920, ông sinh sống tại nhà riêng ở
Doorn trên đất khách quê người. Khi ấy, ông vẫn luôn khao khát về nước khôi phục nền quân chủ, nhưng khi nhận thấy
Đức Quốc xã không hề muốn điều này xảy ra, ông cắt đứt mọi quan hệ với
chính phủ Đức Quốc xã vào năm
1934, và ông vẫn an trí tại Hà Lan cho đến khi
qua đời vào năm
1941 trong cuộc
Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
[7]